sách về các nhà khoa học nổi tiếng
Otto Hahn là một nhà hóa học và nhà khoa học đoạt giải Nobel bạn Đức, fan đi mũi nhọn tiên phong trong lĩnh vực phóng xạ với hóa học phóng xạ. Ông được xem như là "cha đẻ của hóa học hạt nhân" và "người gây dựng thời đại nguyên tử".
Trong bài viết mới nhất hôm nay, TOP10AZ xin giới thiệu TOP 10 Nhà Bác Học Nổi Tiếng Nhất Thế Giới! Danh sách TOP 1. Archimedes Archimedes of Syracuse (287 TCN - 212 TCN) là một nhà vật lý, kỹ sư, nhà thiên văn học, nhà toán học và nhà phát minh người Hy Lạp.
15 quyển sách hay về các nhà khoa học kể về cuộc sống khác thường cùng những góp phần vĩ đại của những nhà khoa học nổi tiếng trên toàn quốc tế như : Galileo, Newton, Faraday, Darwin, Pasteur, Marie Curie, Einstein, Freud, ..
Các nhà khoa học là nguồn cảm hứng để nhiều đạo diễn nổi tiếng tạo nên những câu chuyện xoay quanh họ. Cùng điểm qua 5 bộ phim về các nhà khoa học hay nhất dưới Cùng điểm qua 5 bộ phim về các nhà khoa học hay nhất dưới đây nhé! 1. The Theory of Everything - Thuyết
Cử tri và Nhân dân lo lắng khi sách giáo khoa sắp xếp chương trình gò ép. Sáng nay, ngày 20/10, Quốc hội khai mạc Kỳ họp thứ 4 với thời gian 21 ngày họp. Đúng 9 giờ sáng, Quốc hội họp Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc
mematikan keran air jika tidak dipakai haknya adalah. 25 cuốn sách hay về khoa học dẫn dắt chúng ta tới những khám phá quan trọng bậc nhất của loài người ở nhiều lĩnh vực như thiên văn học, vũ trụ học, di truyền học,..Lược Sử Thời GianLược sử thời gian là cuốn sử thi về sự ra đời, sự hình thành và phát triển của vũ trụ. Tác giả đưa vào tác phẩm của mình toàn bộ tiến bộ tiến trình khám phá của trí tuệ loài người trên nhiều lĩnh vực Triết học, Vật lý, Thiên văn học…Chúng ta sống cuộc sống hàng ngày của chúng ta mà hầu như không hiểu được về thế giới chung quanh. Chúng ta cũng ít khi suy ngẫm về cơ chế đã tạo ra ánh sáng Mặt trời – một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự sống, về hấp dẫn – cái chất keo đã kết dính chúng ta vào Trái đất mà nếu khác đi chúng ta sẽ xoay tít và trôi dạt vào không gian vũ trụ, về nguyên tử đã cấu tạo nên tất cả chúng ta và chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào sự bền vững của chúng. Chỉ trừ có trẻ em vì chúng còn biết quá ít để không ngần ngại đặt ra những câu hỏi quan trọng còn ít ai trong chúng ta tốn thời gian để băn khoăn tại sao tự nhiên lại như thế này mà không như thế khác, vũ trụ ra đời từ đâu, hoặc nó có mãi mãi như thế này không, liệu có một ngày nào đó thời gian sẽ trôi giật lùi, hậu quả có trước nguyên nhân hay không; hoặc có giới hạn cuối cùng cho sự hiểu biết của con người hay không. Thậm chí có những đứa trẻ con, mà tôi có gặp một số, muốn biết lỗ đen là cái gì; cái gì là hạt vật chất nhỏ bé nhất, tại sao chúng ta chỉ nhớ quá khứ mà không nhớ tương lai; và nếu lúc bắt đầu là hỗn loạn thì làm thế nào có sự trật tự như ta thấy hôm nay và tại sao lại có vũ sử vạn vật là cuốn sách phổ biến khoa học trình bày một cách ngắn gọn lịch sử nghiên cứu khoa học tự nhiên, những thành tựu khoa học trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên chính vật lý, hóa học, sinh học, địa chất, thiên văn… với nhiều tên tuổi, giai thoại và sự cuốn sách này, người đọc sẽ biết được những giới hạn trong tri thức của con người về vũ trụ và cả về chính trái đất. Đây là cuốn sách khoa học phổ thông bán chạy nhất nước Anh năm 2005 với hơn bản in. Nhà phê bình người Anh, Craig Brown thậm chí đã nhận xét rằng tác phẩm này xứng đáng bán được cuốn theo cách nói của chính Bryson, “bằng với số proton có trong một dấu chấm câu”.William McGuire “Bill” Bryson, tác giả cuốn sách Lược sử vạn vật – A Short History of Nearly Everything sinh năm 1951, là tác giả nổi tiếng hàng đầu trong thể loại non-fiction ở Bắc Mỹ, với vô số người hâm mộ trên khắp thế – Cuộc Đời Và Vũ TrụCuốn sách khai thác và công bố những tư liệu mới nhất về Einstein, làm rõ những giai đoạn, sự kiện và vấn đề trong cuộc sống cá nhân của sách cũng chỉ ra và làm rõ những chặng trên con đường khoa học của Einstein, cho thấy những suy tư và trăn trở của ông để đưa ra những lý thuyết vật lý làm thay đổi toàn bộ nền vật lý thế kỷ XX, cũng như cuộc tranh luận của ông với các nhà cơ học lượng giả đã lột tả được cá tính, tư tưởng chính trị và những đặc điểm trong trí tuệ, nhân cách của Einstein một cách sinh Bào Gốc Khám Phá Cùng Nhà Khoa HọcCuốn sách giúp cho bạn đọc có một cái nhìn bao quát đối với tế bào gốc từ lịch sử phát minh, đến cấu trúc tế bào, cơ chế phân tử, đến bộ gene và di truyền ngoài bộ gene di truyền ngoại mã.Điều đặc biệt ấn tượng là tất cả những kiến thức cơ bản này được diễn giải thật dễ hiểu bằng ngôn ngữ phổ thông, chứ không hàn lâm như trong giới nghiên cứu. Để chuyển tải các khái niệm trừu tượng khó hiểu của thế giới sinh học vi mô đến với người đọc, tác giả đã sử dụng các biện pháp so sánh tương đồng rất tài tình đến nỗi những người có kiến thức trong lĩnh vực, còn thấy hết sức độc đáo thú Lịch Sử Và Tương Lai Của Nhân LoạiGen Lịch sử và tương lai của nhân loại được sắp xếp cả theo thứ tự niên đại lẫn chủ đề mà đường cong chính yếu là lịch sử. Mukherjee bắt đầu dẫn dắt từ khu vườn trồng đậu của Mendel, trong một tu viện hẻo lánh ở Moravia vào năm 1864, nơi Gen được khám phá rồi nhanh chóng bị quên lãng. Được kể song song với câu chuyện này là học thuyết tiến hóa của Darwin. Gen đã mê hoặc các nhà cải cách Anh và Mỹ, những người nuôi hy vọng thao túng di truyền học người để tăng tốc quá trình tiến hóa và giải phóng nhân loại. Ý niệm này leo thang đến tột đỉnh ghê rợn ở Đức thời Quốc xã vào những năm 1940 với những thí nghiệm dị hợm, mà đỉnh điểm là sự giam cầm, triệt sản cưỡng bức, gây chết êm dịu, và giết người hàng những câu chuyện lồng trong mỗi câu chuyện, nhưng cuốn sách này còn là một câu chuyện rất cá nhân – một lịch sử riêng tư. Tác giả dẫn giải từ chính những bi kịch gia đình với một số thành viên của nhiều thế hệ mắc phải những bệnh trạng tâm thần khó hiểu, đây cũng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn sách, đặt ra những trăn trở về khả năng tiến xa đến đâu của loài người trong hành trình từ phòng thí nghiệm khoa học di truyền ra với thực đã rất thành công với Lịch sử ung thư – Hoàng đế của bách bệnh đạt giải Putlitzer 2011, và tới Gen, vẫn nguyên vẹn lối kể chuyện lôi cuốn tài năng, bằng con mắt của một chuyên gia, một nhà nghiên cứu khoa học – uyên bác, đa chiều, đầy khám phá và bằng ngòi bút của một người trong cuộc – trải nghiệm, lay động, đầy ám Gốc Các LoàiNguồn Gốc Các Loài là tên rút gọn của cuốn sách Về Nguồn Gốc Các Loài Qua Con Đường Chọn Lọc Tự Nhiên, hay Sự Bảo Tồn Những Chủng Ưu Thế Trong Đấu Tranh Sinh Tồn của Charles Darwin, xuất bản năm 1859. Đây là một cuốn sách khoa học hiếm có khi bán hết 1250 bản in lần đầu trong vòng một ngày và trong một thời gian ngắn đã làm “rung chuyển” cả thế giới. Cuốn sách này là kết quả của những quan sát của Darwin trong chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên con tàu biển Beagle vòng quanh thế giới, cùng với những suy tư và nghiên cứu của ông trong hai mươi năm sau đó, trong đó ông đặt vấn đề có tính quyết định về biến đổi luận hay sự tiến hóa. Sách của ông đã được xuất bản nhiều lần, sửa đổi, liên tục cập nhật cho đến khi ông Robert Darwin 1809-1882 là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nếu như sự tiến hóa được cộng đồng các nhà khoa học và công chúng chấp nhận ở thời đại Darwin, thì lý thuyết chọn lọc của ông trong những năm 1930 được xem như lời giải thích chính yếu cho quá trình này, và ngày nay đã trở thành nền tảng cho lý thuyết tiến hóa hiện đại. Khám phá này là lý thuyết thống nhất cho các ngành khoa học sinh vật, có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho sự đa dạng Vi Trùng Và ThépCuốn sách giải thích vì sao các nền văn minh Á – Âu bao gồm cả Bắc Phi lại tồn tại được, cũng như đã chinh phục các nền văn minh khác, cùng lúc ông bác bỏ các lý thuyết về sự thống trị của các nền văn minh Á –Âu dựa trên trí tuệ, đạo đức hay ưu thế di truyền. Jared Diamond lập luận rằng, sự khác biệt về quyền lực và công nghệ giữa các xã hội loài người có nguồn gốc từ sự khác biệt về môi trường, trong đó sự khác biệt này được khuếch đại không ngường. Qua đó, ông giải thích tại sao Tây Âu, chứ không phải các nền văn minh khác trong thế giới Á – Âu như Trung Quốc, lại trở thành các thế lực thống trịMục đích của cuốn sách này là cung cấp một lược sử về tất cả mọi người trong khoảng năm trở lại đây. Câu hỏi đã khiến tôi viết ra cuốn sách này là tại sao lịch sử đã diễn ra trên mỗi châu lục một khác? Nếu như câu hỏi này lập tức khiến bạn nhún vai cho rằng bạn sắp phải đọc một luận văn phân biệt chủng tộc thì, xin thưa, không phải vậy. Như bạn sẽ thấy, những lời đáp cho câu hỏi này tuyệt không bao hàm những sự khác biệt về chủng tộc. Cuốn sách này tập trung truy tìm những lý giải tối hậu và đẩy lùi chuỗi nhân quả lịch sử càng xa bao nhiêu càng tốt bấy Sử Tự NhiênVới hơn hình minh họa và dữ liệu bổ ích về khoáng vật, đá, hóa thạch và sinh giới trên Trái đất – bao gồm vi sinh vật, nấm và động, thực vật – Lịch sử tự nhiên mở ra cánh cửa khám phá thế giới tự nhiên chứa đựng vô vàn những điều kì thú trên hành tinh của chúng ta. Đây là công trình biên soạn của tập thể các chuyên gia về thiên nhiên hoang dã, với sự cố vấn của Viện Smithsonian danh sách này là cánh cửa nhìn vào sự đa dạng đáng kinh ngạc và lịch sử tự nhiên của thế giới quanh ta. Ngược dòng thời gian về 4,6 tỉ năm trước, khi Trái đất hình thành, là một chặng đường dài. Đến nay đã có hơn 1,9 triệu loài sinh vật được mô tả, và hơn loài mới được phát hiện và mô tả hằng năm. Nghiên cứu các loài này, tác động qua lại giữa chúng với nhau và với môi trường xung quanh cũng là nghiên cứu lịch sử tự nhiên của chính con người chúng ta. Lịch sử tự nhiên bắt đầu bằng một phần giới thiệu tổng quan về sự sống trên Trái đất nền tảng địa chất của sự sống, sự tiến hóa của các dạng sống và cách thức phân loại các sinh vật. Năm chương tiếp theo là hệ thống các mẫu vật – từ khoáng vật tới các loài thú – vừa bao quát vừa dễ hiểu kèm theo lời giới thiệu cung cấp thông tin về từng nhóm và mô tả chi tiết đặc điểm từng mẫu Lược Sử Loài NgườiSapiens tập trung vào các quá trình quan trọng đã định hình loài người và thế giới quanh nó, chẳng hạn như sự ra đời của sản xuất nông nghiệp, việc tạo ra tiền, sự lan truyền của những tôn giáo, và sự nổi lên của những nhà nước quốc gia. Không giống như những quyển sách khác cùng loại, Sapiens đã có một lối tiếp cận liên ngành học, bắc cầu qua những khoảng cách giữa lịch sử, sinh học, triết học và kinh tế theo một lối trước đây chưa từng có. Hơn nữa, lấy cả quan điểm vĩ mô và vi mô, Sapiens không chỉ đề cập đến những gì đã xảy ra và tại sao, mà còn đi sâu vào việc những cá nhân trong lịch sử đó đã cảm nhận nó như thế hỏi lớn và sâu sắc của Harari là chúng ta thực sự muốn gì? Có cách nào để đạt được hạnh phúc cho con người chúng ta, hoặc thậm chí liệu chúng ta có biết được nó là gì hay không? Trong cốt lõi của nó, Sapiens biện luận rằng chúng ta không biết về bản thân chúng ta, huống chi biết được những nhu cầu của những loài sinh vật khác. Chúng ta đã quá thường xuyên bị những tưởng tượng hư cấu của chúng ta lừa dối. Lịch sử cũng là một hư cấu, nhưng một hư cấu đã được kiềm chế bởi thực tại và biện luận một hình thức của huyền thoại – một hư cấu hữu ích – khiến nó có thể mang lại sự giác ngộ của sự tự biết chính Deus Lược Sử Tương LaiHomo sapiens có phải là một dạng sống siêu đẳng, hay chỉ là một tay đầu gấu địa phương? Làm thế nào con người lại tin rằng họ không chỉ đã kiểm soát thế giới, mà còn mang lại ý nghĩa cho nó? Công nghệ sinh học và trí thông minh nhân tạo đe doạ loài người ra sao? Sinh vật nào có thể kế thừa loài người, và tôn giáo mới nào sẽ được sản sinh?Với giọng kể cuốn hút và mới lạ, Harari sẽ dần gợi mở và trả lời những câu hỏi trê, nhờ phân tích chi tiết những luận điểm gây nhiều tranh cãi chủ nghĩa nhân đạo là một dạng tôn giáo, thứ tôn giáo tôn thờ con người thay vì thần thánh; sinh vật là thuật toán… ông vẽ ra một viễn cảnh tương lai khi Sapiens thất thế và Dữ liệu giáo trở thành một hình mẫu. HOMO DEUS còn bàn sâu hơn về các năng lực mà con người đã tự trang bị để sinh tồn và tiến hoá thành một giống loài ngự trị trên trái đất, để rồi chính trong tiến trình hoàn thiện và nâng cấp các năng lực ấy chúng ta sẽ bị truất quyền kiểm soát bởi một sinh vật mới, mang tên Homo Thế Giới Song SongMột chuyến du hành đầy trí tuệ qua các vũ trụ, được dẫn dắt tài tình bởi “thuyền trưởng” Michio Kaku và độc giả có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ vĩ của vũ trụ kể từ vụ nổ lớn, vượt qua những hố đen, lỗ sâu, bước vào các thế giới lượng tử từ muôn màu kỳ lạ nằm ngay trước mũi chúng ta, vốn dĩ tồn tại song song trên một màng bên ngoài không – thời gian bốn chiều, ngắm nhìn thực tại vật chất quen thuộc hoà quyện với thế giới của những điều kỳ diệu như năng lượng và vật chất tối, sự nảy chồi của các vũ trụ, những chiều không gian bí ẩn và sự biến ảo của các dây rung siêu nhỏ…Dẫn chuyện lôi cuốn, kết hợp tường minh, sống động một lượng thông tin đồ sộ để khai mở những giới hạn tột cùng của trí tưởng tượng, Kaku thực sự xứng đáng là ” nhà truyền giáo” vĩ đại đã mang thế giới vật lý lý thuyết tới quảng đại quần sách Nhân Tố EnzymeMỗi chúng ta đều luôn lo lắng cho sức khỏe của bản thân nhưng lại không biết làm thế nào để chăm sóc cho sức khỏe trở nên tốt hơn. Bạn lại cảm thấy rất hoang mang khi nghĩ rằng mình đã đủ chăm sóc cho bản thân nhưng lại hay bị cảm bệnh, da trở nên khô sạm, dễ lão hóa,…Đến với bộ sách Nhân tố Enzyme, bác sĩ Hiromi Shinya chia sẻ đến bạn đọc cách hoạt động của enzyme, enzyme ảnh hưởng đến cơ thể chúng ta như thế nào, những thói quen chăm sóc sức khỏe thường ngày của chúng ta đã tốt chưa, chúng ta phải làm gì để cải thiện điều đó,…Những Nhà Khám Phá – Lịch Sử Tri Kiến Vạn Vật Và Con NgườiĐược coi như cuốn sách lớn nhất của một trong những sử gia lớn nhất thời hiện đại, Những nhà khám phá là một tập khảo luận đồ sộ và bao quát về cách thức nhân loại đã khám phá thế giới, dù còn dang dở bởi như Einstein đã từng nói, “Cái bí ẩn vĩnh hằng của thế giới là tính khả tri”. Boorstin chứng tỏ mình là một nghệ sĩ bậc thầy khi kết hợp những mảnh tư liệu lớn trong kho tàng lịch sử tri thức thành những cấu trúc trật tự và lô gích, theo một mạch văn sống động, hé mở sự vận động tiệm tiến của tri thức qua truyện kể về những cá nhân kiệt xuất đã từng vạch lối mở đường, bằng niềm tin, sự cẩn trọng cùng ý chí và quyết tâm sắt đá, tiến tới khai phá “miền đất lạ”, làm nên hiểu biết của chúng ta về sự phát triển của vũ trụ trong gần hai thiên niên kỷ qua, truy nguyên từ Ptolemy qua Copernicus và Newton tới Einstein, giúp ta nhìn thấu thời đại Khám phá vĩ đại, Tự nhiên muôn màu và hơn thế nữa…Là cuốn mở đầu cho tác phẩm bộ ba lịch sử thế giới bao gồm cả “The Creators Những nhà sáng tạo” và “The Seekers Những người tìm kiếm”, nhưng Những nhà khám phá được coi như một kiệt tác độc lập. Một tác phẩm nổi bật, vượt trội, khai mở cho người tò mò muốn biết thế giới đã được khám phá như thế nào, một trong những bách khoa thư lịch sử xuất sắc nhất khó lòng tìm được ở bất cứ nơi đâu ThìChúng ta được sinh ra với một tư duy phân biệt và bản thể bị giới hạn. Điều này là cần thiết, vì nếu không chúng ta không thể biết được đâu là mình, đâu không phải là mình, và đâu là thứ sẽ là mình. Mình là một thứ vô cùng quan trọng. Nhưng biết được rồi, thì hãy gác nó qua một bên. Gác lại luôn những điều mình vẫn tin là đúng, và thử tự hỏi xem nếu điều ngược lại xảy ra thì sao. Biết đâu điều ngược lại mới là đúng? Biết đâu đó là cách để có thể vượt qua được định kiến của bản thân. Biết đâu khi đó mình sẽ trở nên rộng mở và bao la hơn?Hãy đặt câu hỏi. Đặt thật nhiều vào. Trả lời chúng tất nhiên là tốn công tốn sức, và rồi sẽ có lúc bạn cảm thấy hoang mang. Nhưng nhờ thế, bạn thấy yên tâm hơn với những điều hiện tại. Nhưng hay hơn cả, là đặt câu hỏi cho những điều tưởng như không bao giờ tồn tại. Biết đâu một ngày nào đó nó có thực thì sao? Mà cho dù nó không đến, thì bạn cũng đã có trong tay vô số lối đi để tiếp tục cuộc hành Phát Minh Làm Nên Thời ĐạiSteven Johnson đích thực là chuyên gia bậc thầy của lịch sử ý tưởng. Trong cuốn sách này, ông chỉ tập trung vào sáu công nghệ và khám phá các phân nhánh của chúng, cả mặt tốt lẫn không tốt. Ông đã tạo ra biểu trưng hình ảnh chim ruồi cho các loại hình phát minh mà mình quan tâm sự đồng tiến hóa của hoa và côn trùng – kẻ không mời từ một trật tự sáng tạo khác. Cuốn sách này là tập hợp đầy đủ những “phát minh chim ruồi” hoàn toàn bất ngờ. Sáu chủ đề được đưa ra là Thủy tinh, Làm lạnh, Âm thanh, Làm sạch, Thời gian, Ánh những câu chuyện nhà phát minh không nhận ra phạm vi thực sự khám phá của mình, như Édouard-Léon Scott de Martinville, người vào năm 1850 đã phát minh ra máy ký âm nhưng không có thiết bị phát lại. Ông tin rằng, ngày nào đó chúng ta sẽ giải mật chúng như cách đọc nốt nhạc. Máy quét sóng siêu âm được phát triển dựa trên thiết bị tìm kiếm tàu đắm Titanic. Nhiều năm sau, công nghệ lại kết hợp với chính sách một con của Trung Quốc để tạo thành sự mất cân bằng giới tính khốc liệt trong xã hội trọng nam. Các chủ đề và hướng tiếp cận của Johnson được lựa chọn đều gây sự khâm phục đáng kinh ngạc. Một trong số đó là chuyện vào thập niên 1850, 1860, cả thành phố Chicago được nâng lên bằng kích vít để đặt hệ thống ống cống ngầm..Mật Mã – Từ Cổ Điển Đến Lượng TửKhi viết cuốn Mật mã này, tác giả có hai mục đích chính. Một là nhằm phác họa sự tiến hóa của mật mã. Từ tiến hóa dùng ở đây là hoàn toàn thích hợp vì sự phát triển của mật mã cũng có thể coi là một cuộc đấu tranh tiến hoá. Một mật mã luôn bị người phá mã tấn công. Khi người phá mã đã tìm ra một vũ khí mới để phát hiện điểm yếu của một mật mã thì mật mã đó không còn hữu dụng nữa. Khi đó hoặc nó sẽ bị xoá sổ hoặc nó sẽ được cải tiến thành một loại mật mã mới, mạnh hơn. Đến lượt mình, mật mã mới này chỉ phát triển mạnh mẽ cho tới khi người phá mã lại xác định được điểm yếu của nó, và cứ tiếp tục mãi như vậy. Điều này cũng tương tự như tình huống đối mặt với một giống vi khuẩn gây bệnh chẳng hạn. Vi khuẩn sống, phát triển mạnh và tồn tại cho đến khi bác sĩ tìm ra chất kháng sinh làm lộ ra những điểm yếu của vi khuẩn và tiêu diệt nó. Vi khuẩn buộc phải tiến hoá và lừa lại kháng sinh, và nếu thành công thì chúng sẽ lại phát triển mạnh mẽ và tái xác lập trở lại. Vi khuẩn liên tục bị buộc phải tiến hoá để sống sót trước sự tấn công dữ dội của các loại kháng sinh mới..Bản Thiết Kế Vĩ ĐạiNội dung cuốn sách, như tác giả nói ngay từ dòng đầu tiên của chương một, là chuyện “Bí ẩn của kiếp nhân sinh”, là những câu hỏi tối hậu về sự sống, vũ trụ và vạn vật Tại sao phải có cái gì đó chứ không phải là hư không?, Tại sao chúng ta tồn tại?, Tại sao là tập hợp các định luật vật lý cụ thể này chứ không phải các tập hợp khác?Đó là những câu hỏi đã từng và luôn luôn làm tất cả chúng ta xao xuyến, ở mức độ khác nhau, với cách tiếp cận khác nhau và trong mức độ hiểu biết khác nhau. Lời giải thì cũng có muôn vàn, từ các truyền thuyết, các câu chuyện cổ tích đến những luận lý đơn thuần dựa trên niềm tin và các lý thuyết khoa học được xây dựng một cách chặt cuốn sách này, Hawking điểm qua tất cả những chặng đường gian nan đó, để rồi cuối cùng đi đến một lý thuyết khả dĩ nhất, được xem là ứng viên duy nhất cho lý thuyết hoàn chỉnh về vũ trụ, lý thuyết- M đấy chính là lý thuyết thống nhất mà Einstein đã hy vọng tìm cũng viết rằng “Thực tế là bản thân con người chúng ta- cũng đơn thuần là tập hợp các hạt cơ bản của tự nhiên- có khả năng đi gần đến hiểu biết về các định luật vũ trụ chi phối chúng ta và vũ trụ của chúng ta, đã là một thành công lớn”.Và tác giả tin rằng, chúng ta sẽ tìm ra bản thiết kế vĩ đại, đặt một dấu son cho cuộc tìm tòi cũng rất vĩ đại kéo dài từ hơn 3000 năm Tuyệt Chủng Thứ 6Kể từ hơn nửa tỉ năm trước, năm đợt tuyệt chủng đã diễn ra, khi sự đa dạng sống trên trái đất bất ngờ thu hẹp lại. Và phải chăng chúng ta đang bước vào đợt tuyệt chủng kế tiếp – Đợt Tuyệt Chủng Thứ Sáu – diễn ra trong thế Nhân sinh, một thế địa chất mà con người thống trị trên nhiều khía trả lời nghi vấn này, Elizabeth Kolbert đã theo chân các nhà khoa học khảo sát sự tồn tại và xác nhận sự biến mất ở một số loài ở khắp các vùng trên trái đất. Từ loài ếch vàng ở Panama đến loài voi răng mấu châu Mỹ; từ lũ chim ăng-ca khờ khạo đến loài cúc đá bé cạnh đó, tác giả cũng đưa chúng ta đến các thử nghiệm và nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của đợt tuyệt chủng thứ sáu. Trong đó, nổi bất nhất chính là những hành động do con người gây ra với các hệ sinh học và địa hóa học của trái đất như thải quá nhiều carbon dioxit, làm axit hóa đại dương, chặt rừng nhiệt đới…How The Body Works – Hiểu Hết Về Cơ ThểTruyền thông ngập tràn những khám phá và những lời khuyên mới mẻ về những thứ chúng ta nạp vào cơ thể nhưng có cơ sở khoa học nào cho bất kỳ tuyên bố đó không?Với những hình minh họa rõ ràng, dễ hiểu, cuốn sách Hiểu hết về thức ăn sẽ mang lại những thông tin lý thú liên quan đến thức ăn, từ công đoạn sản xuất đến ích lợi/tác hại của chúng với sức Tuệ Giả TạoNgày nay Internet, được sự trợ giúp của công nghệ máy tính và đường truyền băng rộng, đã trở thành phần thiết yếu trong đời sống của con người. Gần như bất cứ hoạt động nào liên quan đến thông tin hay kiến thức, thậm chí quan hệ xã hội, đều có thể được con người thực hiện thông qua tiện lợi đã thật sự rõ ràng, và cũng có thể vì thế mà chẳng mấy ai sẵn sàng nhìn vào mặt tối của Internet – nó đã khiến chúng ta phụ thuộc vào nó, biến đổi cách chúng ta tư duy, thậm chí làm thui chột trí tuệ của con cách viết chặt chẽ, khoa học về một chủ đề khoa học, Nicholas Carr – một tác giả, nhà báo, chuyên gia công nghệ thông tin – đã chứng tỏ cho chúng ta thấy ông hoàn toàn có lý khi lật ngược vấn đề như Học – Khái Lược Những Tư Tưởng LớnVũ trụ khởi đầu như thế nào? Chân lí là gì? Làm thế nào để ta có thể sống một cuộc đời tốt đẹp?Xuyên suốt chiều dài lịch sử, loài người đã tự hỏi mình những điều này cùng những câu hỏi lớn lao khác về bản chất của đời sống và tồn tại và các tư tưởng gia vĩ đại đã đưa ra những lời giải đáp mà cho đến nay vẫn đang tiếp tục định hình thế giới của chúng văn phong dễ hiểu và sáng sủa, Triết học – Khái Lược Những Tư Tưởng Lớn là tập hợp những bài viết ngắn gọn hàm súc giải thích rõ những điều khó hiểu, những sơ đồ từng bước một giúp làm sáng tỏ những lí thuyết rối rắm, những trích dẫn kinh điển giúp triết học trở nên dễ nhớ và những hình ảnh minh họa dí dỏm giúp chúng ta chơi đùa với những tư tưởng của chính Thức Về Vạn Vật – Một Thế Giới Trực Quan Chưa Từng ThấyCuốn sách này sẽ cho bạn thấy những điều bách khoa thư thông thường chỉ PHÁ bí ẩn lăng mộ vua Tutankhamun, sức mạnh khủng khiếp của sóng thần, động đất, vòi rồng và lò phản ứng hạt nhân bên trong Mặt THẤY sự hình thành một ngôi sao, bên trong cơ thể khủng long bạo chúa và bí mật HÀNH ngược thời gian về thời xây Vạn Lý Trường Thành, đền Pantheon của Athens cổ đại và hai cuộc chiến tranh thế giới tàn SÁT tín hiệu từ không gian, lực từ trường vô hình và tri thức khoa học ẩn giấu trong pháo dụng các tác phẩm đồ họa máy tính ngoạn mục, Tri thức về vạn vật sẽ hé lộ những chi tiết kỳ diệu chưa từng thấy về vũ trụ, Trái đất, thiên nhiên, cơ thể người, khoa học và lịch sử. Trọn vẹn những sự thật kinh ngạc, dòng thời gian sinh động và hình ảnh ấn tượng, cuốn bách khoa thư gia đình đầy hấp dẫn này sẽ biến những chủ đề phức tạp nhất hóa dễ dàng chỉ trong nháy Hành TinhMột quyển sách chứa đầy những thông tin, hình ảnh sắc nét như đem chính chúng ta tới những miền hẻo lánh, xa xôi nhất của Hệ Mặt trời. Nó cho chúng ta thấy được quang cảnh chi tiết và đem đến cho chúng ta những thông tin mới mẻ nhất về các đặc điểm địa hình, địa chất, khí quyển, các suy đoán cùng toàn bộ lịch sử phát hiện và thám hiểm những thiên thể xa xôi mà con người đã, hoặc chưa thể với sẽ là quyển sách dành cho bất kỳ ai có bộ óc phiêu lưu, muốn phá tan các giới hạn và có khát vọng nắm bắt các bí ẩn của vũ trụ nói chung và Hệ Mặt trời nói riêng. Ngoài ra, sách đầy ắp những thông tin cập nhật nhất, được truyền tải bằng những hình ảnh rõ nét nhất, phù hợp cho cả những chuyên gia lẫn các đối tượng độc giả nghiệp dư cần tư liệu tham khảo trong ngành Vũ trụ học và Thiên văn Focus – Quyển Sách Khổng Lồ Về Khoa Học Thường ThứcQuan sát mọi thứ từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, tại sao lại không nhỉ? Thay vì nhìn vạn vật dưới lăng kính thông thường, Cuốn sách khổng lồ về khoa học thường thức sẽ đưa các bạn đến với một trải nghiệm hoàn toàn mới khi “bóc tách” lớp vỏ bên ngoài của sự vật, mở ra hành trình khám phá muôn vàn bí mật còn ẩn giấu bên trong thông qua những trang gấp khổng lồ vô cùng thú những điều lớn lao cho đến những điều nhỏ bé, từ vũ trụ bao la cho đến những vật dụng đơn giản chúng ta vẫn thường dùng, bạn sẽ không khỏi bất ngờ khi phát hiện ra rằng mọi thứ không đơn giản như vẻ bên ngoài của nó!Big Picture Book Of General Knowledge – Cuốn Sách Tranh Khổng Lồ Về Khoa Học Thường ThứcBạn có biếtWolfgang Amadeus Mozart bắt đầu sáng tác nhạc vào năm 1761, khi ông mới chỉ là một cậu bé 5 xe buýt màu đỏ của London được giới thiệu đến công chúng vào năm chua có rất nhiều màu, xanh, vàng, tím hoặc đen, và cả màu đỏ còn bí mật gì của thế giới rộng lớn ngoài kia?BIG PICTURE BOOK OF GENERAL KNOWLEDGE – Cuốn sách tranh khổng lồ về KHOA HỌC THƯỜNG THỨC sẽ giải đáp gần như tất tần tật các bí mật cho hầu hết mọi chủ đề trong cuộc sống. Hãy nhanh tay mở cuốn sách và cùng khám phá những bí ẩn từ dưới lòng đất tới tận vũ trụ bao la nhé!
ArchimedesLeonardo da VinciAlbert EinsteinIsaac NewtonGalileo Galilei Charles DarwinThomas EdisonStephen Hawking Archimedes Archimedes thành Syracuse 287 TCN – 212 TCN là một nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh và nhà thiên văn học người Hy Lạp. Dù có ít chi tiết về cuộc đời ông được biết, ông được coi là một trong những nhà khoa học hàng đầu của thời kỳ cổ đại. Ông là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất lịch sử vì đã tính được số Pi xấp xỉ chính xác – tức là tỷ số giữa chu vi hình tròn với đường kính của nó, xấp xỉ bằng 3,14159. Lực đẩy Archimedes là một trong những thành tựu thành công nhất trong cuộc đời của ông với câu nói nổi tiếng “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng cả Trái Đất” Archimedes suy nghĩ của Fetti 1620 Nguồn Wikipedia Leonardo da Vinci Leonardo di ser Piero da Vinci 1452 – 1519 là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà phát minh và triết học tự nhiên người Ý. Ông được coi là thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân loại. Có lẽ phát minh nổi tiếng nhất của ông là một chiếc máy bay dựa trên sinh lý học của loài dơi. Những khám phá này và nhiều khám phá khác về cơ chế bay được tìm thấy trong quyển da Vinci’s Codex on the Flight of Birds tạm dịch Codex của Leonardo da Vinci trên Chuyến bay của các loài chim. Ông là tác giả của những bức hoạ nổi tiếng như bức Mona Lisa, bức Bữa ăn tối cuối cùng. Leonardo da Vinci Albert Einstein Albert Einstein 1878 – 1955 – nhà khoa học vĩ đại của thế kỉ XX là một nhà vật lý lý thuyết người Đức, được công nhận là một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất mọi thời đại, người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại trụ cột còn lại là cơ học lượng tử. Ông lại được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 “cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện”. Công trình về hiệu ứng quang điện của ông mang tính bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử. Ông được tạp chí Time bầu chọn là người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Albert Einstein Isaac Newton Sir Isaac Newton 1642 – 1727 – nhà vật lý, toán học nước Anh, người được thế giới tôn là “người sáng lập ra vật lý học cổ điển“. Ngoài nghiên cứu về phép tính vi tích phân, nhà toán học Newton đã đóng góp vào việc nghiên cứu chuỗi lũy thừa, khái quát định lý nhị thức cho số mũ không nguyên, phát triển phương pháp tính gần đúng tìm nghiệm thực của một hàm số và phân loại hầu hết các đường cong phẳng bậc ba. Thành tựu lớn nhất của Newton chính là thuyết vạn vật hấp dẫn, mà từ đó ông đã có thể giải thích được những chuyển động của mọi hành tinh, kể cả mặt trăng. Newton chứng minh rằng mọi hành tinh trong thái dương hệ đều chuyển động xung quanh mặt trời. Công trình nguyên cứu của ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng kiến thức khổng lồ mà không gì có thể thay thế được. Isaac Newton Galileo Galilei Galileo di Vincenzo Bonaiuti de’ Galilei 1564 – 1642 là một nhà thiên văn học, nhà vật lý, nhà toán học và triết gia người Ý, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Galileo được gọi là “cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại”, “cha đẻ của vật lý hiện đại”, “cha đẻ của khoa học” và “cha đẻ của khoa học hiện đại. Stephen Hawking đã nói “Galileo, có lẽ hơn bất kỳ một người riêng biệt nào, chịu trách nhiệm về sự khai sinh khoa học hiện đại”. Ông có một câu nói rất nổi tiếng nhưng không được công nhận lúc sinh thời nhưng mãi cho đến tận sau này mới được người đời công nhận đó là “Dù sao Trái Đất vẫn quay!” Galileo Galilei Charles Darwin Charles Robert Darwin 1809 – 1882 là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người nguồn cho thuyết tiến hóa thông qua chọn lọc tự nhiên từ đó giải thích cho qua trình tiến hóa của loài thuyết tiến hóa ra đời đã làm rung chuyển mạnh mẽ quan điểm tôn giáo cho rằng chúa trời là nguồn gốc sáng tạo muôn loài và chỉ có chúa mới quyết định sự tồn vong hay diệt vong của chúng. Nguồn gốc của các loài là tác phẩm khoa học xuất sắc, lỗi lạc của ông đã được ghi nhận bởi cộng đồng khoa học làm thay đổi nhận thức của toàn bộ nhân loại. Charles Darwin Thomas Edison Thomas Alva Edison 1847 – 1931 là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ XX. Ngoài việc là một nhà sáng chế thiên tài ông còn là một thương nhân tài năng. Sở hữu hơn phát minh và sáng chế, Edison từng bị thầy giáo xem là “kẻ tâm thần” không thể đến trường, nhưng cuộc đời ông là cuốn truyện đáng đọc. Thomas Edison Stephen Hawking Stephen William Hawking 1942 – 2018 là nhà vật lý thiên tài người Anh, người dành cả cuộc đời để giải mã các bí ẩn của vũ trụ. Ông là một nhà khoa học vĩ đại, một người đàn ông phi thường với công sức và di sản sẽ sống cùng chúng ta trong nhiều năm nữa. Hawking là người đầu tiên đặt ra lý thuyết vũ trụ học được giải thích bởi sự kết hợp giữa lý thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ việc diễn giải nhiều thế giới của cơ học lượng tử. Cuốn Lược sử thời gian tựa gốc tiếng Anh A Brief History of Time của ông nằm trong danh sách những quyển sách phổ thông về khoa học bán chạy nhất mọi thời đại. Stephen Hawking Qua bài viết trên hi vọng bạn đã có thể hiểu thêm về những nhà khoa học vĩ đại trong lịch sử nhân loại chúng ta. Hãy cảm ơn họ vì nhờ có họ nhân loại của chúng ta mới có được như ngày hôm nay. Nếu bạn có nhu cầu tìm hiểu thêm về những phát minh cũng vĩ đại không kém do người Việt làm ra thì có thể tham khỏa tại đây. Người viết Minh Quân Nguồn Tổng hợp
ảnh đẹp siêu xe, hoa đẹp, nhà cao, động vật đẹp, cánh đồng hoa, địa điểm du lịch, chim đẹp, kỳ quan thế giới, cá đẹp, nhà khoa học, nữ xinh, động vật có sừng đẹp, động vật hoang dã, 1. ISAAC NEWTON January 4, 1643 – March 31, 1727 Ông là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhà thần học và nhà giả kim người Anh, được nhiều người xem là một trong những nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử, với vai trò là nhân vật chính trong cuộc cách mạng khoa học. Xem thêm Euler là một trong những nhà toán học nổi tiếng nhất của thế kỷ 18 và được coi là một trong những nhà toán học vĩ đại nhất trong lịch sử. Ông cũng được nhiều người coi là nhà toán học có năng suất nhất mọi thời đại. Sau khi ông qua đời, các công trình của ông được tập hợp lại trong quyển "Leonhard Euler Opera Omnia" gồm 85 quyển cỡ lớn với hơn trang, ước tính một người phải làm việc khoảng 40 năm mới có thể ghi lại lượng công trình này. Ông đã dành phần lớn cuộc đời của mình ở Saint Petersburg, Nga, và Berlin, khi ấy là thủ đô của nước Phổ. Một nhận xét của Pierre-Simon Laplace đã thể hiện ảnh hưởng của Euler đối với toán học "Hãy đọc Euler, đọc Euler đi, ông ấy là bậc thầy của tất cả chúng ta." Tên của ông đã được đặt cho một miệng núi lửa trên Mặt Trăng và cho tiểu hành tinh 2002 Euler. Ẩn bớt tin 2. LEONHARD EULER April 15, 1707 – September 18, 1783 Ông là một nhà toán học, nhà vật lý học, nhà thiên văn học, nhà lý luận và kỹ sư người Thụy Sĩ. Ông cùng với Archimedes và Newton được xem là một trong những nhà toán học lừng lẫy nhất. Ông đã có những khám phá quan trọng và rất ảnh hưởng trong nhiều ngành toán học, như vi tích phân và lý thuyết đồ thị, đồng thời có những đóng góp tiên phong cho một số ngành như tô pô và lý thuyết số giải tích. Ông cũng giới thiệu nhiều thuật ngữ và ký hiệu toán học hiện đại, đặc biệt cho ngành giải tích toán học, nổi bật là khái niệm hàm số toán học. Ông cũng được biết đến với những nghiên cứu về cơ học, thủy động lực học, quang học, thiên văn học và lý thuyết âm nhạc. Xem thêm Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica tạm dịch Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và ba định luật về chuyển động, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt ba thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông loại bỏ hoàn toàn thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học. Trong cơ học, Newton đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng bảo toàn quán tính. Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu. Trong toán học, Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích phân. Ông cũng đưa ra nhị thức Newton tổng quát. Năm 2005, trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton là người được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein. Ẩn bớt tin 3. ALBERT EINSTEIN March 14, 1879 – April 18, 1955 Ông là nhà vật lý lý thuyết người Đức, người đã phát triển thuyết tương đối tổng quát, một trong hai trụ cột của vật lý hiện đại trụ cột còn lại là cơ học lượng tử. Mặc dù được biết đến nhiều nhất qua phương trình về sự tương đương khối lượng-năng lượng được xem là "phương trình nổi tiếng nhất thế giới", ông lại được trao Giải Nobel Vật lý năm 1921 "cho những cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện". Công trình về hiệu ứng quang điện của ông mang tính bước ngoặt khai sinh ra lý thuyết lượng tử. Xem thêm Khi bắt đầu sự nghiệp của mình, Einstein đã nhận ra cơ học Newton không còn có thể thống nhất các định luật của cơ học cổ điển với các định luật của trường điện từ. Từ đó ông phát triển thuyết tương đối đặc biệt, với các bài báo đăng trong năm 1905. Tuy nhiên, ông nhận thấy nguyên lý tương đối có thể mở rộng cho cả trường hấp dẫn, và điều này dẫn đến sự ra đời của lý thuyết về hấp dẫn trong năm 1916, năm ông xuất bản một bài báo về thuyết tương đối tổng quát. Ông tiếp tục nghiên cứu các bài toán của cơ học thống kê và lý thuyết lượng tử, trong đó đưa ra những giải thích về lý thuyết hạt và sự chuyển động của các phân tử. Ông cũng nghiên cứu các tính chất nhiệt học của ánh sáng và đặt cơ sở cho lý thuyết lượng tử ánh sáng. Năm 1917, Einstein sử dụng thuyết tương đối tổng quát để miêu tả mô hình cấu trúc của toàn thể vũ trụ. Cùng với Satyendra Nath Bose, năm 1924-1925 ông tiên đoán một trạng thái vật chất mới đó là ngưng tụ Bose-Einstein của những hệ lượng tử ở trạng thái gần độ không tuyệt đối. Tuy cũng là cha đẻ của thuyết lượng tử, nhưng ông lại tỏ ra khắt khe với lý thuyết này. Điều này thể hiện qua những tranh luận của ông với Niels Bohr và nghịch lý EPR về lý thuyết lượng tử. Khi ông đang thăm Hoa Kỳ thì Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, do vậy ông đã không trở lại nước Đức, nơi ông đang là giáo sư ở Viện Hàn lâm Khoa học Berlin. Ông định cư tại Hoa Kỳ và chính thức trở thành công dân Mỹ vào năm 1940. Vào lúc sắp diễn ra Chiến tranh thế giới lần hai, ông đã ký vào một lá thư cảnh báo Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Đức Quốc Xã có thể đang nghiên cứu phát triển "một loại bom mới cực kỳ nguy hiểm" và khuyến cáo nước Mỹ nên có những nghiên cứu tương tự. Điều đó dẫn đến sự ra đời của Dự án Manhattan sau này. Einstein ủng hộ việc bảo vệ các lực lượng Đồng Minh, nhưng nhìn chung, ông chống lại việc sử dụng phát kiến mới về phân hạch hạt nhân làm vũ khí. Sau này, cùng với nhà triết học người Anh Bertrand Russell, ông đã ký Tuyên ngôn Russell–Einstein, nêu bật sự nguy hiểm của vũ khí hạt nhân. Einstein làm việc tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey cho đến khi ông qua đời vào năm 1955. Einstein đã công bố hơn 300 bài báo khoa học và hơn 150 bài viết khác về những chủ đề khác nhau, ông cũng nhận được nhiều bằng tiến sĩ danh dự trong khoa học, y học và triết học từ nhiều cơ sở giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ông được tạp chí Time bầu chọn là người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Ẩn bớt tin 4. CARL FRIEDRICH GAUSS April 30, 1777 – February 23, 1855 Ông là một nhà toán học và nhà khoa học người Đức tài năng, người đã có nhiều đóng góp lớn cho nhiều lĩnh vực khoa học, như lý thuyết số, giải tích, hình học vi phân, khoa trắc địa, từ học, tĩnh điện học, thiên văn học và quang học. Được mệnh danh là "hoàng tử của các nhà toán học", với ảnh hưởng sâu sắc cho sự phát triển của toán học và khoa học, Gauss được xếp ngang hàng cùng Leonhard Euler, Isaac Newton và Archimedes như là những nhà toán học vĩ đại nhất của lịch sử. Xem thêm Johann Carl Friedrich Gauss sinh ngày 30 tháng 4 năm 1777 tại Braunschweig, Lãnh địa Braunschweig-Wolfenbüttel nay là Hạ Saxony, Đức, là con trai duy nhất của một cặp vợ chồng thuộc tầng lớp lao động nghèo trong xã hội. Mẹ của Gauss không biết chữ và không bao giờ ghi lại ngày sinh của ông, chỉ nhớ rằng Gauss được sinh ra vào thứ Tư, tám ngày trước lễ Thăng thiên 39 ngày sau lễ Phục sinh. Gauss sau đó đã giải được câu đố về ngày sinh của mình trong khi đang dò tìm ngày diễn ra lễ Phục sinh, tìm thấy các phương pháp để tính được ngày này từ cả năm trước đó và những năm sau này. Ông đã được rửa tội và cử hành lễ kiên tín trong một nhà thờ gần trường mà ông theo học khi còn nhỏ. Gauss được coi là một thần đồng. Trong đài tưởng niệm về Gauss, Wolfgang Sartorius von Waltershausen nói rằng khi Gauss mới chỉ ba tuổi, ông đã sửa lại các phép tính mà cha mình mắc phải khi bán hàng; và khi lên bảy, ông tự tin giải một bài toán cấp số cộng nhanh hơn bất kỳ ai khác trong lớp học gồm 100 học sinh của mình. Nhiều phiên bản của câu chuyện này đã được kể lại từ thời điểm đó với nhiều chi tiết khác nhau liên quan đến chủ đề của câu chuyện là gì – thường gặp nhất là bài toán cổ điển về việc cộng tất cả các số nguyên từ 1 đến 100. Có nhiều giai thoại khác về sự tiến bộ của ông khi còn chập chững, và ông đã có những khám phá toán học đột phá đầu tiên khi còn là một thiếu niên. Ông đã hoàn thành kiệt tác của mình, Disquisitiones Arithmeticae, vào năm 1798 ở tuổi 21—dù nó không được xuất bản mãi cho đến năm 1801. Công việc này đóng vai trò là nền tảng cơ bản trong việc củng cố lý thuyết số như một môn học và đã định hình lĩnh vực này cho đến ngày nay. Khả năng trí tuệ của Gauss đã thu hút sự chú ý của Công tước Braunschweig, người đã gửi ông đến trường Collegium Carolinum nay là Đại học Kỹ thuật Braunschweig, mà ông theo học từ 1792 đến 1795, và tới Đại học Göttingen từ 1795 đến 1798. Khi còn ở trường đại học, Gauss đã độc lập tái khám phá một số định lý quan trọng. Bước đột phá của ông xảy ra vào năm 1796, khi ông chứng minh được rằng mọi đa giác đều với số cạnh bằng số nguyên tố Fermat và, do đó, mọi đa giác đều với số cạnh bằng tích của các số nguyên tố Fermat khác nhau và lũy thừa của 2 đều có thể dựng được bằng compa và thước kẻ. Đây là một khám phá đóng vai trò chính trong một lĩnh vực quan trọng của toán học; các vấn đề về dựng hình đã làm đau đầu nhiều nhà toán học kể từ thời Hy Lạp cổ đại, và khám phá này cuối cùng đã khiến Gauss chọn sự nghiệp toán học thay vì bác ngữ học. Gauss đã thích thú với kết quả này đến nỗi ông đã yêu cầu khắc lên mộ mình sau này một hình thất thập giác đều, tuy nhiên, người xây mộ đã từ chối, nói rằng khó khăn về kỹ thuật sẽ khiến cho hình với số cạnh nhiều như vậy khi khắc lên về cơ bản sẽ trông giống một hình tròn. Năm 1796 là một năm đạt nhiều thành tựu cho cả Gauss và lý thuyết số. Ngày 30 tháng 3 năm đó, ông đã phát hiện ra một cách dựng hình thất thập giác. Sau đó, ông tiếp tục nâng cấp phát triển số học module, giúp đơn giản hóa rất nhiều thao tác trong lý thuyết số. Ngày 8 tháng 4, ông trở thành người đầu tiên chứng minh thành công định luật tương hỗ bậc hai. Định luật tổng quát đáng chú ý này cho phép các nhà toán học xác định khả năng có thể giải được của bất kỳ phương trình bậc hai nào trong số học mô-đun. Định lý số nguyên tố, được tiên đoán vào ngày 31 tháng 5, cho thấy một cách hiểu thấu đáo về cách các số nguyên tố được phân bổ trong dãy số nguyên. Ngày 10 tháng 7, Gauss cũng phát hiện ra rằng mọi số nguyên dương có thể biểu diễn dưới dạng tổng của nhiều nhất là ba số tam giác; ông đã sung sướng viết trong nhật ký của mình. Ngày 1 tháng 10, ông cho xuất bản một kết quả về các nghiệm của các đa thức với hệ số trong trường vô hạn, một kết quả mà 150 năm sau đã dẫn đến phát biểu Weil. Ẩn bớt tin 5. GALILEO GALILEI February 15, 1564 – January 8, 1642 Ông là một nhà thiên văn học, vật lý học, toán học và triết học người Ý, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học. Các thành tựu của ông gồm những cải tiến cho kính thiên văn, các quan sát thiên văn sau đó và ủng hộ Chủ nghĩa Kopernik. Galileo được gọi là "cha đẻ của việc quan sát thiên văn học hiện đại", "cha đẻ của vật lý hiện đại", "cha đẻ của khoa học" và "cha đẻ của khoa học hiện đại." Stephen Hawking đã từng nhận xét về Galileo rằng "Galileo, có lẽ hơn bất kỳ một người riêng biệt nào, chịu trách nhiệm về sự khai sinh khoa học hiện đại." Xem thêm Sự chuyển động của các vật thể tăng tốc đều, được dạy ở hầu hết trong các khóa học về vật lý của các trường trung học và cao đẳng, đã được Galileo nghiên cứu trong chủ đề về chuyển động học. Những đóng góp của ông trong thiên văn học quan sát gồm vệc xác nhận các tuần của Sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc, được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông, và sự quan sát và phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng làm việc trong khoa học và công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn. Sự bênh vực của Galileo dành cho thuyết nhật tâm của Kopernik đã gây tranh cãi trong đời ông. Quan điểm địa tâm đã là thống trị từ thời Aristoteles, và sự tranh cãi nảy sinh sau khi Galileo trình bày thuyết nhật tâm như một minh chứng khiến Giáo hội Công giáo Rôma cấm tuyên truyền nó như một sự thực đã được chứng minh, vì nó chưa có thể chứng minh được theo kinh nghiệm ở thời điểm ấy và cũng trái ngược với cách giải nghĩa Kinh Thánh phổ biến đương thời. Theo lệnh của Tòa án dị giáo Rôma, Galileo cuối cùng buộc phải từ bỏ thuyết nhật tâm của mình và bị quản thúc tại gia cho tới khi qua đời. Ẩn bớt tin 6. GOTTFRIED von LEIBNIZ July 1, 1646 – November 14, 1716 Ông là một nhà bác học người Đức với các tác phẩm chủ yếu viết bằng tiếng Latin và tiếng Pháp. Xem thêm Ông được giáo dục về luật và triết học, và phục vụ như là factotum cho hai gia đình quý tộc lớn người Đức, Leibniz đã đóng một vai trò quan trọng trong chính trị của châu Âu và các vấn đề ngoại giao trong thời đại của ông. Ông chiếm vị trí quan trọng ngang nhau trong cả lịch sử triết học và lịch sử toán học. Ông khám phá ra vi tích phân độc lập với Isaac Newton, và ký hiệu của ông được sử dụng rộng rãi từ đó. Ông cũng khám phá ra hệ thống số nhị phân, nền tảng của hầu hết các cấu trúc máy tính hiện đại. Trong triết học, ông được nhớ đến nhiều nhất với chủ nghĩa lạc quan, kết luận của ông là vũ trụ của chúng ta là, trong một nghĩa giới hạn, là một vũ trụ tốt nhất mà Thiên Chúa có thể tạo ra. Ông, cùng với René Descartes và Baruch Spinoza, là một trong ba nhà lý luận rationalist nổi tiếng của thế kỉ 17, nhưng triết học của ông cũng nhìn ngược về truyền thống Scholastic và dự đoán trước logic hiện đại và triết học phân tích. Leibniz cũng có nhiều đóng góp lớn vào vật lý và kỹ thuật, và dự đoán những khái niệm sau này nổi lên trong sinh học, y học, địa chất, lý thuyết xác suất, tâm lý học, ngôn ngữ học và công nghệ thông tin. Ông cũng viết về chính trị, luật, đạo đức học, thần học, lịch sử và ngữ văn, đôi khi làm cả vài câu thơ. Đóng góp của ông trong nhiều lĩnh vực khác nhau xuất hiện rải rác trong các tạp chí và trong trên mười ngàn lá thư và những bản thảo chưa xuất bản. Nhiều bản thảo của ông được viết bằng tốc ký sử dụng sáng chế của riêng ông sử dụng số nhị phân để mã hóa các chuỗi ký tự. Cho đến nay, không có sưu tập đầy đủ về những tác phẩm và bản thảo của Leibniz, và do đó thống kê hết những thành tựu ông đạt được là không thể biết được. Ẩn bớt tin 7. MICHAEL FARADAY September 22, 1791 – August 25, 1867 Ông là một nhà hóa học và vật lý học người Anh hoặc là nhà triết học tự nhiên, theo thuật ngữ của thời đó đã có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa học. Xem thêm Faraday nghiên cứu về trường điện từ xung quanh một dây dẫn có dòng điện một chiều chạy qua. Khi nghiên cứu những vấn đề này, Faraday đã thành lập khái niệm cơ bản về trường điện từ trong vật lý, rồi sau đó được phát triển bởi James Maxwell. Ông ta cũng khám phá ra cảm ứng điện, nghịch từ, và định luật điện phân. Ông chứng minh rằng từ học có thể tác động lên các tia của ánh sáng. Những sáng chế của ông ta về những thiết bị có điện trường quay đã đặt nền móng cho công nghệ động cơ điện, và ông có công lớn khi làm cho điện có thể sử dụng trong ngành công nghệ. Về mặt hóa học, Michael Faraday phát hiện ra benzene, nghiên cứu về clathrate hydrate, sáng chế ra hình dạng đầu tiên của đèn Bunsen và hệ thống chỉ số oxi hóa, và công bố các thuật ngữ như anode, cathode, electrode, và ion. Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít và biết ít về toán cao cấp, như phép giải tích, nhưng ông ta là một trong những nhà khoa học có uy tín trong lịch sử. Các nhà nghiên cứu về lịch sử của khoa học cho rằng ông là người chủ nghĩa thực nghiệm tốt nhất trong lịch sử khoa học. Đơn vị SI của tụ điện, farad, được đặt theo tên của ông, cũng như hằng số Faraday, điện tích trong một đơn vị mole của electron khoảng 96,485 coulomb. Định luật cảm ứng Faraday nói rằng luồng điện từ thay đổi trong thời gian nhất định tạo ra một lực điện động tỷ lệ. Faraday là vị giáo sư hóa học Fullerian đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc, đã giữ vị trí trong suốt cuộc đời. Albert Einstein đã dán tấm hình của Faraday lên phòng học của mình cùng với những tấm hình của Isaac Newton và James Clerk Maxwell. Faraday là người sùng đạo; ông là thành viên của nhà thờ Sandemanian, một giáo phái cơ đốc được thành lập vào năm 1730 đòi hỏi sự trung thành tuyệt đối. Người viết tiểu sử về ông đã kết luận rằng "một cảm giác mãnh liệt về Chúa và tự nhiên đã tràn ngập khắp cuộc đời và công việc của Faraday." Ẩn bớt tin 8. Charles Robert Darwin February 12, 1809 - April 19, 1882 Ông là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Nếu như sự tiến hóa được cộng đồng các nhà khoa học và công chúng chấp nhận ở thời đại Darwin, thì lý thuyết chọn lọc của ông trong những năm 1930 được xem như lời giải thích chính yếu cho quá trình này, và ngày nay đã trở thành nền tảng cho lý thuyết tiến hóa hiện đại. Khám phá của Darwin là lý thuyết thống nhất cho các ngành khoa học sinh vật vì có thể đưa ra lời giải thích duy lý cho sự đa dạng loài. Xem thêm Trong thời gian học ở Đại học Edingburgh, Darwin bỏ bê việc học y khoa để tìm hiểu những loài động vật biển có xương sống. Sau đó ông học ở Đại học Cambridge, ở đây người ta khuyến khích đam mê nghiên cứu khoa học. Trong suốt chuyến hành trình năm năm sau đó ông có những quan sát và lý thuyết ủng hộ cho ý tưởng thống nhất sinh học của Charles Lyell. Ông cũng trở thành tác giả nổi tiếng sau khi xuất bản nhật ký về chuyến hải hành. Tự vấn về sự phân bố của các loài hoang dã và các hóa thạch theo phân vùng địa lý, Darwin đã tìm hiểu về sự biến đổi hình thái của các loài và phát triển lý thuyết chọn lọc tự nhiên vào năm 1838. Ông hoàn thành lý thuyết vào năm 1858. Khi đó Alfred Russel Wallace gởi đến ông bài luận cũng về ý tưởng như vậy. Sau đó cả hai cùng hợp tác để xuất bản lý thuyết này. Cuốn sách Nguồn gốc muôn loài On the Origin of Species, 1859 của ông nói rằng tiến hóa qua các thế hệ là do biến dị và điều này cung cấp lời giải thích khoa học cho sự đa dạng trong tự nhiên. Ông kiểm định sự tiến hóa của loài người và chọn lọc giới tính trong các cuốn Dòng dõi của Con người The Descent of Man, Quá trình Chọn lọc Liên quan đến Giới tính Selection in Relation to Sex, sau đó là Biểu lộ Cảm xúc ở Con người và Loài vật The Expression of Emotions in Man and Animals. Những nghiên cứu của ông về thực vật được xuất bản trong một loạt cuốn sách. Cuốn cuối cùng của ông là về các loài địa côn trùng và ảnh hưởng của chúng đối với đất. Để ghi nhận công lao to lớn của Darwin, ông là một trong năm người không thuộc Hoàng gia Anh của thế kỷ 19 được cử hành quốc tang và được chôn ở Westminster Abbey, cạnh mộ của John Herschel và Isaac Newton. Ẩn bớt tin 9. Aristotle 384 – 322 TCN Ông là một nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Platon và thầy dạy của Alexandros Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, luận lý học, tu từ học rhetoric, ngôn ngữ học, Kinh tế học, chính trị học, đạo đức học, sinh học, và động vật học. Ông được xem là người đặt nền móng cho môn luận lý học, và được mệnh danh là "Cha đẻ của Khoa học chính trị". Ông cũng thiết lập một phương cách tiếp cận với triết học bắt đầu bằng quan sát và trải nghiệm trước khi đi tới tư duy trừu tượng. Cùng với Platon và Socrates, Aristoteles là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại. Xem thêm Aristoteles, cái tên có nghĩa là "mục đích tốt nhất", được sinh tại Stagira thuộc Vương quốc Macedonia cách thành Athens 200 dặm về phía bắc, tức là ở phía đông Thessaloniki ngày nay, vào năm 384 TCN. Cha của ông là bác sĩ riêng, bạn thân của quốc vương Macedonia Amyntas III ông nội của Alexandros Đại đế. Từ nhỏ Aristoteles sống với cha mẹ và được cha dạy cho về y khoa. Năm 17 tuổi, Aristoteles đến thành Athena và theo học nghề thầy thuốc. Aristoteles đến Athens từ lúc 18 tuổi và trở thành học viên trong Học viện Platon. Ông học ở đó khoảng 20 năm trước khi rời Athens vào 348/47 TCN. Người ta thường kể lại, ông rời bỏ Athens vì thất vọng là học viện đã được giao cho cháu của Platon Speusippus lãnh đạo, mặc dù cũng có thể là vì khuynh hướng chống lại người Macedonia đang nổi dậy, cho nên ông đã bỏ đi trước khi Platon mất. Người ta có thể tưởng tượng rằng thời kỳ sống với Platon là một thời kì lý tưởng trong cuộc đời Aristoteles. Một môn đệ thông minh xuất chúng được ở gần một giáo sư toàn năng. Sự thật thì mối liên quan giữa hai thầy trò không phải luôn luôn tốt đẹp. Platon lớn hơn Aristoteles gần 43 tuổi, chỉ sự cách biệt ấy cũng không làm dễ dàng sự thông cảm. Platon công nhận rằng Aristoteles là một môn đệ thông minh xuất chúng, hiếu học vì Aristoteles là một trong những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại biết sưu tầm những tài liệu viết tay thời bấy giờ để lập thành một thư viện. Nhà của Aristoteles được Platon gọi là nhà đọc sách, nhiều người cho đó là một lời khen, nhưng cũng có người cho đó là một lời chê có ý ám chỉ đến tinh thần quá chú trọng vào sách vở của Aristoteles. Một sự bất hoà khác quan trọng hơn xảy ra vào cuối đời Platon. Aristoteles có vẻ chống lại tư tưởng của Platon và nhiều khi không đồng ý với Platon. Thái độ này làm Platon rất bất bình coi Aristoteles như một đứa con vô ơn. Một vài học giả cho rằng Aristotetes lập một trường hùng biện. Trong số các môn sinh có Hermias sau này thành người cầm quyền tiểu quốc Atarneus. Để tỏ lòng nhớ ơn thầy cũ, Hermias mời Aristoteles về sống tại triều đình vào năm 344 TCN, Hermias giới thiệu người chị là Pythias của mình làm vợ Aristoteles. Cuộc hôn nhân là một sự thành công mĩ mãn. Sau đó một năm 343 TCN, quốc vương Macedonia là Philippos II mời Aristoteles về triều đình để dạy cho thái tử Alexandros. Đó là một vinh dự rất lớn cho Aristoteles, vì Philip II cũng như Alexandros là những vị vua danh tiếng và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại. Philip II chinh phục Thrace năm 356 TCN để chiếm những mỏ vàng vô cùng phong phú gấp 10 lần số vàng của Athena. Thần dân của Philip là những nông dân khoẻ mạnh, những chiến sĩ dũng cảm biết chịu đựng gian khổ. Nhờ những yếu tố ấy Philip II và Alexandros đã thôn tính hàng trăm tiểu quốc và thực hiện được sự thống nhất Hy Lạp. Philippos II không ưa chủ nghĩa cá nhân đương thời mặc dù chủ nghĩa này có kết quả tốt đẹp đối với nghệ thuật và đời sống tinh thần của dân Hy Lạp. Philippos II cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của sự đồi truỵ kinh tế cũng như chính trị. Chính dựa vào chủ nghĩa này mà những kẻ lưu manh chính trị có thể lơi dụng sự tin tưởng quá dễ dãi của dân chúng để mặc tình thao túng chính trường gây nên bè phái, giai cấp, âm mưu chống đối nhau. Philippos II quyết chấm dứt tình trạng trên để thực hiện một nước Hy Lạp thống nhất và hùng mạnh xứng đáng là trung tâm chính trị của thế giới thời bấy giờ. Trong thời niên thiếu Philippos II đã học quân sự tại Thebes Hy Lạp. Năm 338 TCN ông chiến thắng tại Athena và thực hiện được sự thống nhất của nước Hy Lạp. Ông mong mỏi sẽ cùng người con là Alexandros tiếp tục cuộc chinh phục thế giới nhưng giấc mộng của ông bị tan vỡ vì ông bị ám sát. Khi Aristoteles đến nhận việc thì Alexandros là một cậu bé 13 tuổi bồng bột và ốm yếu, ưa cưỡi ngựa và tập ngựa. Những cố gắng của Aristoteles để làm dịu sự bồng bột của Alexandros hình như không đem lại nhiều kết quả. Theo một vài sử gia Alexandros coi Aristoteles như cha ruột của mình và về phần Alexandros cũng đã từng tuyên bố muốn học hỏi và coi trọng sự hiểu biết hơn là chinh phục thế giới. Nhưng đó chỉ là những lời lẽ xã giao vì không đúng với sự thật. Alexandros luôn luôn là một chiến sĩ thích chinh phục, sau khi thọ giáo 2 năm với Aristoteles, Alexandros nối ngôi cha và bắt đầu chinh phục thế giới. Sự thành công của Alexandros có lẽ một phần nào do ảnh hưởng của Aristoteles và người ta thường so sánh thiên tài của Aristoteles trong lãnh vực triết lý với thiên tài của Alexandros trong lãnh vực chính trị. Cả hai vĩ nhân này đều có công với nhân loại một bên thống nhất thế giới, một bên thống nhất triết lý. Sau khi cất quân chinh phục châu Á, Alexandros để lại ở Hy Lạp những chính phủ trung thành với ông nhưng không được dân chúng ủng hộ. Truyền thống dân chủ của người Hy Lạp không thể một sớm một chiều bị lu mờ trước sức mạnh của đội quân Alexandros. Tại những chính phủ này, những đảng lên cầm quyền được mệnh danh là đảng Macedonia hay là đảng thân Alexandros. Năm 334 TCN, Aristoteles trở về Athena sau một cuộc du hành và lẽ cố nhiên không dấu cảm tình đối với đảng Macedonia tại đó.[11] Công trình khảo cứu khoa học, triết lý, chính trị của Athena tuy rất bao la nhưng không phải là hoàn toàn theo đuổi trong sự yên tĩnh. Nhiều biến cố chính trị luôn luôn đe doạ Aristoteles và nhóm cộng sự viên, công trình này hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thành công của Alexandros trên lãnh vực chính trị. Những nhận xét trên đây còn cho phép chúng ta hiểu rõ tư tưởng chính trị của Aristoteles. Ẩn bớt tin 10. DMITRI MENDELEEV February 8, 1834 – February 2, 1907 Ông là một nhà hoá học và nhà phát minh người Nga. Ông được coi là người tạo ra phiên bản đầu tiên của bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, một bước ngoặt lớn trong lịch sử nghiên cứu hoá học. Sử dụng bảng tuần hoàn này, ông đã dự đoán các tính chất của các nguyên tố còn chưa được phát hiện. Ông cũng là người phát hiện nhiệt độ sôi tới hạn. Xem thêm Giai đoạn 1859 và 1861, ông làm việc về tính mao dẫn của các chất lỏng và kính quang phổ tại Heidelberg. Cuối tháng 8 năm 1861 ông viết cuốn sách đầu tiên về kính quang phổ. Ngày 4 tháng 4 năm 1862 ông hứa hôn với Feozva Nikitichna Leshcheva, và họ cưới ngày 27 tháng 4 năm 1862 tại nhà thờ của Trường Cao đẳng Cơ khí Nikolaev ở Saint Petersburg. Mendeleev trở thành Giáo sư Hoá học tại Viện Công nghệ Nhà nước Saint Petersburg và Đại học Nhà nước Saint Petersburg năm 1863. Năm 1865 ông trở thành Tiến sĩ Khoa học với luận văn "Về những hoá hợp của Nước và Rượu". Ông được bổ nhiệm năm 1867, và tới năm 1871 đã biến Saint Petersburg thành một trung tâm được quốc tế công nhận trong lĩnh vực nghiên cứu hoá học. Năm 1876, ông say mê Anna Ivanova Popova và bắt đầu tán tỉnh bà, năm 1881 ông cầu hôn bà và đe doạ sẽ tự tử nếu bị từ chối. Cuộc li dị của ông với Leshcheva kết thúc một tháng sau khi ông đã cưới ngày 2 tháng 4 đầu năm 1882. Thậm chí sau khi li dị, Mendeleev về kỹ thuật vẫn là một người mắc tội lấy một người khác khi vẫn con trong hôn nhân; Nhà thờ Chính thống Nga yêu cầu phải có ít nhất 7 năm trước khi tái hôn một cách hợp pháp. Cuộc hôn nhân của ông và sự tranh cãi xung quanh nó góp phần khiến ông không thể được chấp nhận vào Viện Hàn lâm Khoa học Nga dù danh tiếng quốc tế của ông vào thời điểm đó. Con gái ông từ cuộc hôn nhân thứ hai, trở thành vợ của nhà thơ Nga nổi tiếng Alexander Blok. Những người con khác của ông là con trai Vladimir một thuỷ thủ, ông tham gia vào Chuyến đi về phía Đông của Nicholas II nổi tiếng và con gái Olga, từ cuộc hôn nhân đầu tiên với Feozva, và con trai Ivan và một cặp sinh đôi với Anna. Dù Mendeleev được các tổ chức khoa học trên khắp châu Âu ca tụng, gồm cả Huy chương Copley từ Viện Hoàng gia London, ông đã từ chức khỏi Đại học Saint Petersburg ngày 17 tháng 8 năm 1890. Chân dung Mendeleev do họa sĩ Ilya Repin vẽ năm 1885 Năm 1893, ông được chỉ định làm Giám đốc Phòng Cân và Đo lường. Chính trong vai trò này ông đã được giao trách nhiệm hình thành những tiêu chuẩn nhà nước mới cho việc sản xuất vodka. Nhờ công việc của ông, năm 1894 các tiêu chuẩn mới cho vodka được đưa vào trong luật Nga và mọi loại vodka phải được sản xuất với nồng độ 40% cồn. Mendeleev cũng nghiên cứu thành phần của các giếng dầu, và giúp thành lập nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Nga. Ẩn bớt tin 11. Stephen William Hawking January 8, 1942 - March 14, 2018 Ông là một nhà vật lý lý thuyết, vũ trụ học, tác giả viết sách khoa học thường thức người Anh, nguyên Giám đốc Nghiên cứu tại Trung tâm Vũ trụ học lý thuyết thuộc Đại học Cambridge. Trong số những công trình khoa học quan trọng của ông, nổi bật nhất là sự hợp tác với Roger Penrose về lý thuyết kỳ dị hấp dẫn trong khuôn khổ thuyết tương đối tổng quát, và tiên đoán lý thuyết hố đen phát ra bức xạ tức bức xạ Hawking. Hawking là người đầu tiên khởi đầu một nền vũ trụ học dựa trên sự thống nhất giữa thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ cách diễn giải nhiều thế giới về cơ học lượng tử. Xem thêm Ông nhận nhiều vinh dự khác nhau, trong đó có Huân chương Tự do Tổng thống, Giải Wolf, là thành viên của Hội Nghệ thuật Hoàng gia và Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng. Hawking đảm nhiệm vị trí Giáo sư Toán học Lucas tại Đại học Cambridge từ năm 1979 đến năm 2009. Năm 2002, Hawking được xếp đứng thứ 25 trong cuộc bình chọn 100 người Anh vĩ đại nhất của BBC. Hawking cũng nổi tiếng với việc viết những cuốn sách phổ biến khoa học trong đó ông thảo luận lý thuyết của ông cũng như vũ trụ học nói chung; cuốn Lược sử thời gian đứng trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times trong thời gian kỷ lục 237 tuần. Stephen Hawking mắc chứng bệnh xơ cứng teo cơ ALS từ năm 21 tuổi, khiến ông phải sống trong trạng thái liệt toàn thân và phải ngồi xe lăn trong phần lớn cuộc đời còn lại của mình. Căn bệnh cũng lấy đi của ông khả năng nói chuyện, buộc ông phải giao tiếp thông qua một thiết bị tạo giọng nói được gắn trực tiếp vào chiếc xe lăn của ông. Mặc dù được chẩn đoán rằng căn bệnh ALS sẽ khiến ông chỉ sống thêm được vài năm, Stephen Hawking đã kéo dài sự sống của mình cho đến tận khi ông từ trần vào ngày 14 tháng 3 năm 2018, hưởng thọ 76 tuổi. Ẩn bớt tin 12. Thomas Alva Edison February 11, 1847 - October 18, 1931 Ông sinh ra ở Milan là một làng thuộc quận Erie, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Ông là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu "Thầy phù thủy ở Menlo Park", ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông, tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông nổi tiếng nhất là bóng đèn, trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của ông. Edison được coi là một trong những nhà phát minh, nhà khoa học vĩ đại và giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức tổng cộng bằng phát minh trên toàn thế giới. Xem thêm Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr 1804 - 1896 và Nancy Matthews Elliott 1810–1871. Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle gọi ông là "rối trí". Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngợm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi đi học được ba tháng. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, "Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng." Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Chứng nặng tai giúp Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey. Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10 năm 1868. Ẩn bớt tin 13. ALHAZEN IBN al-HAYTHAM July 1, 965 – March 6, 1040 Ông thường được biết đến là ibn al-Haytham, được Latin hóa là Alhazen hoặc Alhacen là nhà toán học, nhà thiên văn học, nhà triết học Ả Rập[7]. Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của khoa học Hồi giáo nói riêng và khoa học nói chung. Xem thêm Quang học Năm 1000, Alhazen nghiên cứu hiện tương phản xạ và khúc xạ. Năm 1021, Alhazen viết một cuốn sách về quang học đó chính là Cuốn sách về quang học, và ông đưa một loạt các lập luận về sự nhìn cũng như kết luận rằng ánh sáng phải phát ra từ vật truyền đến mắt người[9]. Ông phát triển một phương pháp khoa học nhấn mạnh việc thực nghiệm để chứng minh điều đó. Ông chủ trì một nghiên cứu khoa học về tâm lý học thị giác và là nhà khoa học đầu tiên cho rằng sự nhìn diễn ra trong não bộ chứ không phải trong mắt. Ông chỉ ra rằng các thí nghiệm cá nhân có ảnh hưởng đến những gì con người nhìn thấy và cách mà họ nhìn thấy và sự nhìn cũng như tri giác là chủ quan. Điều này đã đi ngược hoàn toàn quan điểm của Plato cho rằng ánh sáng phát ra từ mắt. Do đó Alhazen cho rằng ánh sáng phải di chuyển với vận tốc hữu hạn, và tốc độ ánh sáng cũng biến đổi, giảm đi trong những vật liệu đặc cũng nghĩ rằng ánh sáng là một loại chất, lan truyền trên quãng đường đòi hỏi thời gian, ngay cả khi chúng ta không cảm nhận được. Ông cũng cho người ta thấy khả năng phóng đại của các kính. Alhazen được mệnh danh là cha đẻ của quang học. Thiên văn học Alhazen đã nghiên cứu các đặc điểm của ánh sáng Mặt Trời bằng các thí nghiệm với camera trong buồng tối obscura, được miêu tả trong quyển Sách quang học 1021, và đã minh họa rằng Mặt Trời là nguồn cung cấp ánh sáng cho Mặt Trăng. Toán học Alhazen đã giải thích cho định lý mà ngày nay được gọi là định lý Wilson. Ông cũng là người nghiên cứu đầu tiên về không gian ba chiều. Alhazen còn nhận ra rằng mọi số hoàn chỉnh chẵn đều phải có dạng 2n−12n − 1 khi 2n − 1 là số nguyên tố, nhưng ông không thể chứng minh được kết quả này. Ẩn bớt tin 14. NIKOLA TESLA July 10, 1856 – January 7, 1943 Ông là một nhà phát minh, kỹ sư điện, kỹ sư cơ khí, và tương lai học người Mỹ gốc Serbia mà được biết đến nhiều nhất vì những đóng góp của mình để thiết kế hệ thống cung cấp điện dòng điện xoay chiều hiện đại. Xem thêm Sinh ra và lớn lên ở Đế quốc Áo, Tesla theo học ngành kỹ thuật và vật lý vào những năm 1870 mà không cần bằng cấp, đồng thời tích lũy kinh nghiệm thực tế vào đầu những năm 1880 khi làm việc trong lĩnh vực điện thoại và tại Continental Edison trong ngành năng lượng điện mới. Năm 1884, ông di cư đến Hoa Kỳ, nơi ông trở thành công dân nhập tịch. Anh ấy đã làm việc một thời gian ngắn tại Edison Machine Works ở Thành phố New York trước khi tự mình thành lập. Với sự giúp đỡ của các đối tác để tài trợ và tiếp thị các ý tưởng của mình, Tesla đã thành lập các phòng thí nghiệm và công ty ở New York để phát triển một loạt các thiết bị điện và cơ khí. Động cơ cảm ứng dòng điện xoay chiều AC của ông và các bằng sáng chế xoay chiều nhiều pha liên quan, được cấp phép bởi Westinghouse Electric vào năm 1888, đã mang về cho ông một số tiền đáng kể và trở thành nền tảng của hệ thống đa pha mà công ty đó cuối cùng đã tiếp thị. Cố gắng phát triển những phát minh mà ông có thể cấp bằng sáng chế và đưa ra thị trường, Tesla đã tiến hành một loạt các thí nghiệm với bộ tạo dao động cơ học / máy phát điện, ống phóng điện và hình ảnh tia X sơ khai. Ông cũng chế tạo một chiếc thuyền điều khiển không dây, một trong những chiếc đầu tiên từng được trưng bày. Tesla trở nên nổi tiếng với tư cách là một nhà phát minh và đã thể hiện những thành tựu của mình trước những người nổi tiếng và những người bảo trợ giàu có tại phòng thí nghiệm của mình, đồng thời được ghi nhận về tài năng của mình tại các buổi thuyết trình trước công chúng. Trong suốt những năm 1890, Tesla đã theo đuổi ý tưởng của mình về chiếu sáng không dây và phân phối điện không dây trên toàn thế giới trong các thí nghiệm điện cao áp, tần số cao của mình ở New York và Colorado Springs. Năm 1893, ông đưa ra tuyên bố về khả năng giao tiếp không dây với các thiết bị của mình. Tesla đã cố gắng đưa những ý tưởng này vào ứng dụng thực tế trong dự án Wardenclyffe Tower còn dang dở của mình, một thiết bị phát điện và liên lạc không dây xuyên lục địa, nhưng đã hết kinh phí trước khi ông có thể hoàn thành nó. Sau Wardenclyffe, Tesla đã thử nghiệm hàng loạt phát minh vào những năm 1910 và 1920 với mức độ thành công khác nhau. Sau khi tiêu gần hết số tiền của mình, Tesla đã sống trong một loạt khách sạn ở New York, để lại những hóa đơn chưa thanh toán. Ông mất tại thành phố New York vào tháng 1 năm 1943. Công việc của Tesla rơi vào tình trạng mù mờ sau khi ông qua đời, cho đến năm 1960, khi Hội nghị chung về trọng lượng và đo lường đặt tên cho đơn vị SI của mật độ từ thông là tesla để vinh danh ông. Mối quan tâm của công chung đối với Tesla đã trở lại từ những năm 1990. Ẩn bớt tin 15. MARIE SKLODOWSKA-CURIE November 7, 1867 – July 4, 1934 Bà là một nhà vật lý và hóa học người Pháp gốc Ba Lan. Bà được coi là người tiên phong trong việc nghiên cứu về tính phóng xạ bà là người đặt ra thuật ngữ phóng xạ. Marie còn là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel, người đầu tiên và là phụ nữ duy nhất vinh dự giành được hai Giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau – vật lý và hóa học. Marie Curie là nữ giảng viên đại học đầu tiên tại Đại học Paris Sorbonne. Vào năm 1995, tro xương của bà được đưa vào tưởng niệm tại điện Panthéon ở Paris vì những đóng góp to lớn cho nhân loại. Xem thêm Tên khai sinh của bà là Maria Salomea Skłodowska, phiên âm tiếng Việt Ma-ri-a Xa-lô-mê-a Xcuô-đốp-xka sinh tại thủ đô Warszawa của Vương quốc Ba Lan lúc bấy giờ là thuộc địa của Nga. Bà học tập tại Đại học Floating – Đại học lưu động một cách bí mật tại Warszawa và bắt đầu nghiên cứu khoa học tại đó. Năm 1891, ở tuổi 24, bà theo chị gái của mình là Bronia đi học ở Paris, nơi cánh cửa khoa học mở rộng cho phụ nữ để thực hiện mơ ước làm khoa học. Bà đã cùng nhận giải Nobel Vật lý năm 1903 với chồng Pierre Curie và nhà Vật lý học Henri Becquerel. 8 năm sau, năm 1911 bà giành được giải Nobel Hóa học. Thành tựu của bà đối với khoa học vô cùng to lớn. Bà đã phát triển lý thuyết phóng xạ phóng xạ là thuật ngữ do bà đặt ra, kỹ thuật để cô lập đồng vị phóng xạ và phát hiện ra hai nguyên tố, polonium và radium. Dưới sự chỉ đạo của bà, các nghiên cứu đầu tiên trên thế giới đã được tiến hành để điều trị các khối u bằng cách sử dụng các đồng vị phóng xạ. Cô thành lập Viện Curie ở Paris và Warsaw – nơi vẫn là trung tâm nghiên cứu y học lớn hiện nay. Trong Thế chiến I, bà đã phát triển các xe X–quang di động để cung cấp dịch vụ X-quang cho các bệnh viện dã chiến. Sau khi nhập quốc tịch Pháp, Marie Skłodowska – Curie đã sử dụng cả hai họ. Bà không bao giờ quên đi bản sắc của dân tộc Ba Lan. Marie đã dạy cho con gái mình tiếng Ba Lan và đưa chúng đi thăm quê hương mình. Bà đã đặt tên cho nguyên tố hóa học đầu tiên mà bà phát hiện ra là poloni, nghĩa là Ba Lan. Marie Curie qua đời năm 1934 ở tuổi 67 tại một nhà điều dưỡng ở Sancellemoz Haute-Savoie, Pháp. Bà đã bị thiếu máu bất sản do tiếp xúc với bức xạ trong quá trình nghiên cứu khoa học và trong quá trình nghiên cứu phóng xạ của bà tại các bệnh viện dã chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ẩn bớt tin 16. EUCLID of ALEXANDRIA circa 325 – 265 TCN Ông đôi khi còn được biết đến với tên gọi Euclid thành Alexandria, là nhà toán học lỗi lạc thời cổ Hy Lạp, sống vào thế kỉ 3 TCN. Ông được mệnh danh là "cha đẻ của hình học". Có thể nói hầu hết kiến thức hình học ở cấp trung học cơ sở hiện nay đều đã được đề cập một cách có hệ thống, chính xác trong bộ sách Cơ sở gồm 13 cuốn do Euclid viết ra, và đó cũng là bộ sách có ảnh hưởng nhất trong Lịch sử toán học kể từ khi nó được xuất bản đến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ngoài ra ông còn tham gia nghiên cứu về luật xa gần, đường cô-nic, lý thuyết số và tính chính xác. Tục truyền rằng có lần vua Ptolemaios I Soter hỏi Euclid rằng liệu có thể đến với hình học bằng con đường khác ngắn hơn không? Ông trả lời ngay "Muôn tâu Bệ hạ, trong hình học không có con đường dành riêng cho vua chúa". Xem thêm Bằng cách chọn lọc, phân biệt các loại kiến thức hình học đã có, bổ sung, khái quát và sắp xếp chúng lại thành một hệ thống chặt chẽ, dùng các tính chất trước để suy ra tính chất sau, bộ sách Cơ sở đồ sộ của Euclid đã đặt nền móng cho môn hình học cũng như toàn bộ toán học cổ đại. Bộ sách gồm 13 cuốn sáu cuốn đầu gồm các kiến thức về hình học phẳng, ba cuốn tiếp theo có nội dung số học được trình bày dưới dạng hình học, cuốn thứ mười gồm các phép dựng hình có liên quan đến đại số, 3 cuốn cuối cùng nói về hình học không gian. Trong cuốn thứ nhất, Euclid đưa ra 5 tiên đề Qua hai điểm bất kì, luôn luôn vẽ được một đường thẳng Đường thẳng có thể kéo dài vô hạn. Với tâm bất kì và bán kính bất kì, luôn luôn vẽ được một đường tròn. Mọi góc vuông đều bằng nhau. Nếu 2 đường thẳng tạo thành với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía có tổng nhỏ hơn 180 độ thì chúng sẽ cắt nhau về phía đó. Và 5 định đề Hai cái cùng bằng cái thứ ba thì bằng nhau. Thêm những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau. Bớt đi những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì được những cái bằng nhau. Trùng nhau thì bằng nhau. Toàn thể lớn hơn một phần. Với các tiên đề và định đề đó, Euclid đã chứng minh được tất cả các tính chất hình học. Con đường suy diễn hệ thống và chặt chẽ của bộ cơ bản làm cho tập sách được chép tay và truyền đi các nước. Tuy nhiên, các định đề và tiên đề của Euclid còn quá ít, đặc biệt là không có các tiên đề về liên tục, nên trong nhiều chứng minh, ông phải dựa vào trực giác hoặc thừa nhận những điều mà ông không nêu thành tiên đề. Ẩn bớt tin PASTEUR December 27, 1822 – September 28, 1895 Ông là một nhà sinh học, nhà vi sinh vật học, nhà hoá học, một tín đồ Công giáo người Pháp, với những phát hiện về các nguyên tắc của tiêm chủng, lên men vi sinh và thanh trùng. Xem thêm Ông thường được biết đến qua những nghiên cứu quan trọng về các nguyên nhân và biện pháp chữa bệnh, và những khám phá đó của ông đã cứu sống vô số người kể từ đó. Ông đã đề ra các biện pháp thanh trùng để làm giảm tỷ lệ tử vong sau khi sinh đẻ ở các sản phụ, tạo ra loại vắc-xin đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than. Những nghiên cứu của ông góp phần hỗ trợ trực tiếp cho Lý thuyết mầm bệnh và các ứng dụng trong Y học lâm sàng. Ông cũng nổi tiếng trong việc phát minh ra kỹ thuật bảo quản sữa và rượu để ngăn chặn vi khuẩn có hại xâm nhập, một quá trình mà ngày nay được gọi là thanh trùng. Ông được xem là một trong 3 người thiết lập nên lĩnh vực Vi sinh vật học, cùng với Ferdinand Cohn và Robert Koch, và được gọi là "cha đẻ của Vi sinh vật học". Pasteur có vai trò lớn trong việc bác bỏ Thuyết tự sinh, vốn in sâu trong tư tưởng các nhà khoa học trước đó. Ông đã thí nghiệm cho thấy rằng nếu không có sự nhiễm khuẩn từ bên ngoài, vi sinh vật không thể tự xuất hiện. Ông chứng minh rằng trong bình tiệt trùng được đóng kín thì sẽ không có vi khuẩn, nhưng khi mở thì vi khuẩn lại xuất hiện, chứng tỏ vi khuẩn đã xâm nhập vào bình qua đường không khí. Thí nghiệm này giúp ông giành giải Alhumbert. Tuy Pasteur không phải là người đầu tiên đề xuất Lý thuyết mầm bệnh, ông đã phát triển nó và tiến hành các thí nghiệm cho thấy rõ tính đúng đắn của nó và thuyết phục người dân Châu Âu tin rằng đó là sự thật. Pasteur đồng thời có những khám phá quan trọng trong ngành Hóa học, đáng chú ý nhất là cơ bản về phân tử đối với tính không đối xứng của một số tinh thể nhất định và raxemic hóa. Ông là Giám đốc Viện Pasteur cho đến khi ông qua đời, và thi thể ông nằm bên dưới viện trong một hầm được theo phong cách khảm Byzantine. Ẩn bớt tin 18. JOHANNES KEPLER December 27, 1571 – November 15, 1630 Ông là một nhà toán học, thiên văn học và chiêm tinh học người Đức. Là một trong những đại diện của cuộc cách mạng khoa học thế kỷ 17, Kepler được biết đến nhiều nhất bởi các định luật về chuyển động thiên thể mang tên ông do các nhà thiên văn học thiết lập dựa trên những công trình của ông như Astronomia nova, Harmonice Mundi và cuốn Thiên văn học Copernicus giản lược. Xem thêm Khởi đầu sự nghiệp, Kepler từng là một giáo viên Toán ở chủng viện Graz, trước khi đảm nhiệm vai trò trợ tá cho nhà Thiên văn Tycho Brahe, và cuối cùng trở thành nhà Thiên văn học triều đình cho Hoàng đế La Mã Thần thánh Rudolf II và sau đó là các hoàng đế kế vị Matthias và Ferdinand II. Trong những năm biến động cuối đời, ông dạy toán ở Linz Áo và là cố vấn cho Albrecht von Wallenstein. Được biết đến chủ yếu ngày nay vì những nghiên cứu thiên văn học, ông còn có những công trình quan trọng trong lĩnh vực quang học, phát minh ra một mẫu kính viễn vọng phản xạ Kính viễn vọng Kepler, và thảo luận về những khám phá bằng kính viễn vọng của một nhà khoa học sống cùng thời, Galileo Galilei. Kepler sống trong một thời đại mà giữa thiên văn và chiêm tinh không có sự phân biệt rõ ràng, nhưng có sự chia tách giữa thiên văn như một nhánh của toán học và vật lý một nhánh của triết học tự nhiên. Kepler cũng kết hợp lý lẽ và lập luận tôn giáo vào công trình của mình, được thúc đẩy bởi đức tin rằng Chúa đã tạo ra thế giới theo một kế hoạch khả tri mà con người có thể lĩnh hội qua ánh sáng của lý trí. Kepler mô tả nền Thiên văn học mới của ông là "Vật lý học thiên thể", như "một cuộc dạo chơi vào siêu hình học của Aristotle", và "một sự bổ sung cho tiểu luận Về bầu trời của Aristotle", biến đổi truyền thống cổ đại về Vũ trụ học Vật lý với việc xem Thiên văn là một phần của một Vật lý học Toán học phổ quát. Ẩn bớt tin 19. MAX PLANCK April 23, 1858 – October 4, 1947 Ông là một nhà vật lý người Đức, được xem là người sáng lập cơ học lượng tử và do đó là một trong những nhà vật lý quan trọng nhất của thế kỷ 20. Ông đạt giải Nobel vật lý năm 1918. Xem thêm Sau khi trình luận án hậu tiến sĩ, ông làm giảng sư không công tại München để chờ ứng cử giáo sư. Mặc dù các chuyên gia thời đó không lưu tâm đến ông, Max Planck vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu trong lĩnh vực lý thuyết nhiệt học, dần dần phát triển một dạng hình thức của nhiệt động học như Josiah Willard Gibbs nhưng không biết về điểm này. Khái niệm entropy – vốn được Clausius đề nhập – giữ vai trò trung tâm trong công trình của ông. Tháng 4 năm 1885, Đại học Christian-Albrecht ở Kiel cử Planck làm phó giáo sư Extraordinarius môn Vật lý lý thuyết. Lương một năm của ông lúc đó là 2000 RM Reichsmark. Các công trình nghiên cứu về entropy và cách ứng dụng nó – phần lớn để đáp ứng những vấn đề vật lý hóa học – được tiến triển. Ông đưa ra lời giải thích từ phía nhiệt động học cho thuyết phân chế điện giải elektrolytische Dissoziationstheorie của Svante Arrhenius. Nhưng Svante Arrhenius lại tỏ vẻ khước từ quan điểm này. Trong thời kì dạy ở Kiel này, Planck đã bắt đầu công trình nghiên cứu phân tích giả thiết nguyên tử Atomhypothese. Tháng 4 năm 1889, Planck được bổ nhiệm kế thừa Kirchhoff tại Berlin người ta cho là qua sự giới thiệu của Helmholtz; từ 1892 trở đi, ông là giáo sư chính vị Ordinarius. Lương năm của ông giờ đây là 6200 RM cộng thêm khoảng 1000 RM cho phí dụng và bản quyền. Năm 1907, Planck được mời làm giáo sư kế thừa Boltzmann tại Viên, nhưng ông từ chối, ở lại Berlin và để đáp ân thầy mình, sinh viên Berlin thực hiện buổi biểu tình cầm đuốc ở đây. Ông về hưu danh dự ngày 1 tháng 10 năm 1907; người thừa kế ông là Erwin Schrödinger. Ẩn bớt tin 20. AUGUSTIN-LOUIS CAUCHY August 21, 1789 – May 23, 1857 Ông là một nhà toán học người Pháp sinh ngày 21 tháng 8 năm 1789 tại Paris và mất ngày 23 tháng 5 năm 1857 cũng tại Paris. Ông vào học Trường Bách khoa Paris École Polytechnique lúc 16 tuổi. Năm 1813, ông từ bỏ nghề kỹ sư để chuyên lo về toán học. Ông dạy toán ở Trường Bách khoa và thành hội viên Hàn lâm viện Khoa học Pháp. Công trình lớn nhất của ông là lý thuyết hàm số với ẩn số tạp. Ông cũng đóng góp rất nhiều trong lãnh vực toán tích phân và toán vi phân. Ông đã đặt ra những tiêu chuẩn Cauchy để nghiên cứu về sự hội tụ của các dãy trong toán học. Xem thêm Sau khi hoàn thành khoá học vào năm 1810, Cauchy chấp nhận một công việc kỹ sư cơ sở tại Cherbourg, nơi Napoleon có ý định xây dựng một căn cứ hải quân. Augustin-Louis ở lại trong ba năm, và mặc dù ông đã có một công việc quản lý vô cùng bận rộn, ông vẫn tìm thấy thời gian để chuẩn bị ba bản thảo toán học mà ông đã gửi hội đồng cấp cao của Học viện Pháp quốc. Hai bản thảo đầu tiên về khối đa diện đã được chấp nhận, bản thứ ba về Mặt cắt hình nón đã bị từ chối. Tháng 9 năm 1812, Cauchy bây giờ 23 tuổi, sau khi trở bệnh do làm việc quá sức, Cauchy quay về Paris. Một lý do khác cho sự trở về của ông là do ông đã mất đi sự yêu thích trong công việc kỹ thuật của mình, ngày càng bị thu hút bởi vẻ đẹp trừu tượng của toán học tại Paris, nơi ông sẽ tìm được một vị trí tốt hơn liên quan đến toán học. Mặc dù ông vẫn giữ vị trí kỹ thuật của mình, ông đã được chuyển từ biên chế của Bộ Hàng hải sang Bộ Nội vụ. Trong 3 năm tiếp theo, ông đã dành toán bộ thời gian của mình nghiên cứu về toán học về các chủ đề liên quan đến nhóm hoán vị, nhóm đối xứng và lý thuyết của phương trình đại số bậc cao. Ông đã cố gắng gia nhập vào hội đống cấp cao Học viện Pháp quốc nhưng đã thất bại 3 lần vào giữa những năm 1813 và 1815. Năm 1815, Napoleon bị đánh bại tại Waterloo, vua Louis XIII lên nắm quyền. Viện Hàn lâm Khoa học Pháp được tái thành lập Lazare Carnot và Gaspard Monge đã bị gỡ bỏ khỏi Học viện này vì lý do chính trị, và nhà vua bổ nhiệm Cauchy để thay thế một trong số họ. Ẩn bớt tin 21. JAMES CLERK MAXWELL June 13, 1831 – November 5, 1879 là một nhà toán học, một nhà vật lý học người Scotland. Thành tựu nổi bật nhất của ông đó là thiết lập lên lý thuyết cổ điển về bức xạ điện từ, mà đã lần đầu tiên bắc chiếc cầu nối giữa điện học, từ học, và ánh sáng như là biểu hiện của cùng một hiện tượng. Phương trình Maxwell của trường điện từ đã được gọi là "lần thống nhất vĩ đại thứ hai trong vật lý" sau lần thống nhất bởi Isaac Newton. Xem thêm Với bài báo Một lý thuyết động lực học của trường điện từ công bố năm 1865, Maxwell đã chứng tỏ được rằng lực tĩnh điện và từ trường lan truyền trong không gian như là các sóng chuyển động với vận tốc bằng tốc độ ánh sáng. Maxwell cho rằng ánh sáng là một dạng dao động sóng trong cùng một môi trường mà là nguyên nhân gây các các hiện tượng điện và từ. Sự thống nhất của ánh sáng với các hiện tượng điện đã đưa đến tiên đoán tồn tại sóng vô tuyến. Maxwell đóng vai trò trong việc phát triển phân phối Maxwell–Boltzmann, một phương pháp thống kê miêu tả các đặc điểm của thuyết động học chất khí. Ông là người đầu tiên đưa ra phương pháp tạo ra ảnh màu bền lâu vào năm 1861 và ông có những công trình nền tảng trong lý thuyết phân tích độ cứng của hệ khung liên kết bởi các nút và thanh khung giàn như ở kết cấu cầu. Các khám phá của ông đã mở ra lối đi cho vật lý hiện đại, đặt cơ sở cho các lĩnh vực như thuyết tương đối hẹp và cơ học lượng tử. Nhiều nhà vật lý coi Maxwell là nhà khoa học thế kỷ 19 có ảnh hưởng lớn nhất đến vật lý thế kỷ 20. Đóng góp của ông đối với khoa học được sánh ngang với các nhà khoa học Isaac Newton và Albert Einstein. Trong một cuộc khảo sát bỏ phiếu chọn ra 100 nhà vật lý có tầm ảnh hưởng nhất trong 1000 năm qua—Maxwell được đánh giá xếp thứ ba, chỉ xếp sau Newton và Einstein. Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Maxwell, Einstein đã miêu tả các công trình của Maxwell "có tầm sâu sắc nhất và là mảnh đất màu mỡ nhất mà vật lý có được kể từ thời của Newton". Ẩn bớt tin 22. BLAISE PASCAL June 19, 1623 – August 19, 1662 Ông là nhà toán học, vật lý, nhà phát minh, tác gia, và triết gia Cơ Đốc người Pháp. Là cậu bé thần đồng, Pascal tiếp nhận nền giáo dục từ cha, một quan chức thuế vụ tại Rouen, trong khi mẹ ông mất sớm. Nghiên cứu đầu tay của Pascal là trong lĩnh vực tự nhiên và khoa học ứng dụng, là những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu về chất lưu, và làm sáng tỏ những khái niệm về áp suất và chân không bằng cách khái quát hóa công trình của Evangelista Torricelli. Pascal cũng viết để bảo vệ phương pháp khoa học. Xem thêm Năm 1642, khi còn là một thiếu niên, Pascal bắt tay vào một số nghiên cứu tiên phong về máy tính. Sau ba năm nỗ lực với năm mươi bản mẫu, cậu đã phát minh máy tính cơ học, chế tạo 20 máy tính loại này gọi là máy tính Pascal, về sau gọi là Pascaline trong vòng mười năm. Pascal là một nhà toán học tài danh, giúp kiến tạo hai lĩnh vực nghiên cứu quan trọng viết một chuyên luận xuất sắc về hình học xạ ảnh khi mới 16 tuổi, rồi trao đổi với Pierre de Fermat về lý thuyết xác suất, có ảnh hưởng sâu đậm trên tiến trình phát triển kinh tế học và khoa học xã hội đương đại. Tiếp bước Galileo và Torricelli, năm 1646, ông phản bác những người theo Aristotle chủ trương thiên nhiên không chấp nhận khoảng không. Kết quả nghiên cứu của Pascal đã gây ra nhiều tranh luận trước khi được chấp nhận. Năm 1646, Pascal và em gái Jacqueline gia nhập một phong trào tôn giáo phát triển bên trong Công giáo mà những người gièm pha gọi là thuyết Jansen. Cha ông mất năm 1651. Tiếp sau một trải nghiệm tâm linh xảy ra cuối năm 1654, ông trải qua "sự qui đạo thứ nhì", từ bỏ nghiên cứu khoa học, và hiến mình cho triết học và thần học. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của Pascal đánh dấu giai đoạn này Lettres provinciales Những lá thư tỉnh lẻ và Pensées Suy tưởng, tác phẩm đầu được ấn hành trong bối cảnh tranh chấp giữa nhóm Jansen với Dòng Tên. Cũng trong năm này, ông viết một luận văn quan trọng về tam giác số học. Pascal có thể chất yếu đuối, nhất là từ sau 18 tuổi đến khi qua đời, chỉ hai tháng trước khi tròn 39 tuổi. Ẩn bớt tin Nguồn tham khảo
Với truyền thống hiếu học được truyền qua nhiều đời. Không ngạc nhiên khi Việt Nam có rất nhiều những thiên tài. Đó có thể là các thiên tài trong nghệ thuật, kinh tế, chính trị…. Họ đã đóng góp rất nhiều cho đất nước từ xưa đến nay. Họ in đậm dấu ấn của mình lên nền lịch sử phát triển của nước nhà. Nhưng cũng đừng quên công lao của những nhà khoa học. Những đóng góp của họ tuy âm thầm nhưng lại vô cùng hữu dụng. Tuy chúng ta khó có thể nhìn thấy điều đó. Trong suốt chiều dài lịch sử đã có rất nhiều nhà khoa học xuất chúng. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về danh sách các nhà khoa học Việt Nam dưới đây nhé. Các nhà khoa học Việt Nam Tạ Quang BửuNhà khoa học Việt Nam Trần Đại NghĩaCác nhà khoa học Việt Nam Lê Văn Thiêm Nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Văn HiệuCác nhà khoa học Việt Nam Hoàng TụyNhà khoa học Việt Nam Đặng Vũ MinhCác nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Sơn BìnhCác nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Xuân Hùng Các nhà khoa học Việt Nam Tạ Quang Bửu Tạ Quang Bửu là giáo sư và nhà khoa học nổi tiếng của nước nhà. Ông là người đi đầu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự. Ông đề xuất cải cách nội dung giảng dạy những điều cơ bản nhất, hiện đại nhất. Cùng với đó là sát hợp với điều kiện Việt Nam nhất ở tất cả bộ môn và ban ngành đào tạo. Các thành tựu tiêu biểu của ông là về phát triển khoa học cơ bản. Ông cũng có những thành tựu trong kỹ thuật rà phá bom mìn trong chiến tranh. Các thành tựu tiêu biểu của ông có thể kể đến như Thống kê thường thức Sóng Vật lý cương yếu Đại số các toán tử 1961 Nguyên tử – hạt nhân và vũ trụ tuyến Nhà khoa học Việt Nam Trần Đại Nghĩa Trần Đại Nghĩa có chức vụ là Giáo sư. Ông tên thật là Phạm Quang Lễ, quê quán ở tỉnh Vĩnh Long. Ông là nhà khoa học lớn và đồng thời là một kỹ sư quân sự. Đồng thời cũng là nhà quản lý khoa học kỹ thuật cao cấp. Các công trình nghiên cứu chế tạo vũ khí của ông được đánh giá cao bởi quốc tế. Ông là cha đẻ của ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam thuở sơ khai. Các nhà khoa học Việt Nam Lê Văn Thiêm Lê Văn Thiêm là giáo sư, tiến sĩ khoa học Toán học tài năng của Việt Nam. Ông có đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển Toán học tại Việt Nam. Ông là cha đẻ của hơn 20 công trình toán học. Những công trình này đều được đăng trên các tạp chí quốc tế. Ông còn chủ biên nhiều sách về chủ đề toán học. Trong đó có 2 cuốn sách chuyên khảo rất nổi tiếng. Đó chính là cuốn Một số vấn đề toán học trong lý thuyết đàn hồi 1970. Và cuốn Một số vấn đề toán học chất lỏng nhớt 1970. Với những công trình xuất sắc của mình. Ông được Nhà nước vinh danh trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Văn Hiệu Nguyễn Văn Hiệu là giáo sư, chính trị gia và cũng là nhà vật lý xuất sắc của Việt Nam. Ông sinh ra tại Cầu Đơ Hà Tây. Nay nơi này thuộc phường Hà Cầu, quận Hà Đông, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình cán bộ nhỏ. Ông đã phải trải qua nhiều vất vả để theo đuổi con đường học tập của mình. Ông là tác giả của rất nhiều công trình nghiên cứu. Phần lớn nó thuộc hai lĩnh vực Lý thuyết chất rắn và Lý thuyết trường lượng tử. Ông cũng đã có đóng góp to lớn trong việc thành lập Viện Khoa học Việt Nam và Viện Vật lý. Ông đã được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho những cống hiến của mình. Các nhà khoa học Việt Nam Hoàng Tụy Giáo sư Hoàng Tụy là nhà toán học Việt Nam tiêu biểu. Ông là người phát minh ra phương pháp lát cắt Tụy. Đây là phương pháp có thể giải được nhiều bài toán tối ưu. Đây được coi là cột mốc đầu tiên rất quan trọng. Nó đánh dấu sự ra đời của Lý thuyết tối ưu toàn cục. Ông là tác giả của trên 100 công trình nghiên cứu. Các công trình đều được đăng trên các tạp chí có uy tín quốc tế. Có thể kể đến một vài công trình như Quy hoạch Toán học, Tối ưu Toàn cụ,… Ông có công lớn trong việc xây dựng ngành Toán học Việt Nam. Và chính ông đã đào tạo các thế hệ Toán học trẻ cho nước nhà. Nhà khoa học Việt Nam Đặng Vũ Minh Giáo sư Đặng Vũ Minh là một Nhà Hóa học quốc tịch Việt Nam. Ngoài ra ông còn là Tiến sĩ Khoa học, Viện sĩ nước ngoài. Ông là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực đặc thù. Có thể kể đến như công nghệ nguyên tố hiếm và hóa học. Ông cũng là đồng tác giả cuốn sách Sản phẩm phân hạch của các nguyên tố siêu u – ran trong vũ trụ. Đây là cuốn sách do Nhà xuất bản Nauka xuất bản bằng tiếng Nga năm 1984. Ông cũng là Tổng biên tập tạp chí Phân tích Hóa – Lý – Sinh. Và cũng là Chủ tịch Hội Phân tích Hóa – Lý – Sinh Việt Nam. Năm 2005, ông vinh dự nhận Huân chương lao động hạng nhất. Đây là một giải thưởng nhà nước về khoa học công nghệ. Các nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Sơn Bình Nguyễn Sơn Bình là nhân vật có nhiều đóng góp cho khoa học nước nhà. Hiện tại ông đang là giảng viên tại trường ĐH Northwestern. Ông tập trung vào nghiên cứu thiết kế các vật liệu mềm. Các vật liệu này thường dành cho các ứng dụng trong khoa học vật liệu, hóa học xúc tác và y học. Ông hiện đang là thành viên chính trong phòng thí nghiệm quốc gia Mỹ có tên Argonne. Các nhà khoa học Việt Nam Nguyễn Xuân Hùng Nguyễn Xuân Hùng là một Giáo sư của chuyên ngành cơ học. Quê ông ở Tánh Linh, Bình Thuận, nhưng gốc là ở Quảng Trị. Ông hiện đang là giảng viên tại ĐH Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh. Ông đã có hơn 60 bài báo quốc tế và đến hơn 40 báo cáo khoa học tại các hội nghị. Nghiên cứu của ông phát triển các công cụ tính toán mạnh và mô phỏng trên máy tính. Nghiên cứu của ông được ứng dụng vào các lĩnh vực của cuộc sống. Và đó chính là danh sách các nhà khoa học Việt Nam nổi bật nhất. Các bạn có nghe đến ai trong số họ chưa. Hãy để lại bình luận cho chúng mình nắm được nhé.
sách về các nhà khoa học nổi tiếng